Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Ngài Aber khá nghiêm túc về chủ đề giáo dục Heiss.
Hắn tự mình thẩm duyệt toàn bộ sách và tài liệu kiến thức phổ thông mà Perl và Siri mua cho Heiss, sau đó lên lịch trình thứ tự và khoanh vùng các kiến thức cô bé cần học.
Ở Elfheim việc phổ cập kiến thức vẫn còn chưa phổ biến tại các quốc gia nhân loại.
Việc đi học là cần phải đóng tiền, và số tiền học phí là do mỗi cơ sở giáo dục tự quy định.
Có hai cấp độ cơ sở giáo dục, là cấp phổ thông và cấp học viện.
Cấp phổ thông bao gồm các cơ sở giáo dục địa phương.
Đại đa số các cơ sở này là tư thục, hoặc trực thuộc các liên minh nhưng vẫn tổ chức thu tiền học phí.
Ở cấp độ này, có hai loại hình kiến thức được dạy, thứ nhất là dạy chữ và các phép tính cơ bản dùng hàng ngày, và thứ hai là dạy nghề các công việc chuyên môn trung bình và thấp.
Chữ viết ở Elfheim thông dụng có vài loại, ngôn ngữ ELf, ngôn ngữ Ork, ngôn ngữ nhân loại.
Về bản chất thì ngôn ngữ nhân loại là sự kết hợp giữa ngôn ngữ Ork và ngôn ngữ Elf.
Văn minh Ork hình thành từ đầu kỷ thứ nhất, và hệ chữ viết Ork được định hình và phát triển trên cơ sở gộp các loại ngôn ngữ sơ khai của Goblin, Semi Ork, hoàn thiện vào kỷ thứ hai.
Văn minh Elf bắt đầu muộn hơn, dù các Urelf cũng đã xuất hiện từ đầu kỷ thứ nhất và bắt đầu sản sinh Sprungelf đi khai phá Elfheim.
Phải đến đầu kỷ thứ hai, tức là mười nghìn năm sau Ork, Elf mới bắt đầu xây dựng bộ chữ viết và ghi chép lại lịch sử chủng tộc họ.
Nhưng khi ELf đã hoàn thiện xong bộ chữ viết cho mình, thì nhân loại hẵng còn là đối tượng chăn nuôi lấy thịt của Ork.
Mãi đến kỷ thứ ba, mười nghìn năm nữa, nhân loại mới bắt đầu tiếp thu ngôn ngữ thông qua việc Ork phát hiện ra dùng nhân loại làm việc khổ sai có lợi hơn là nuôi lấy thịt và làm nô lệ cấp thấp không thể giao lưu.
Ở thời kỳ ban đầu này, đa số các nô lệ nhân loại đều được dạy ngôn ngữ Ork.
Kỷ thứ ba có chiều dài khá ngắn so với hai kỷ trước, kết thúc sau hơn hai nghìn năm, do nổ ra đại thế chiến thứ nhất.
Lúc này, Elf cũng bắt đầu biết nhiều tới nhân loại và hai chủng tộc bắt đầu cố gắng giao lưu với nhau.
Đại thế chiến thứ nhất kết thúc, nhân loại bắt đầu quá trình vươn lên mạnh mẽ với tư cách là một chủng tộc có văn minh.
Elf đóng vai trò then chốt trong tiến trình này, khi chỉ dạy cho nhân loại gần như tất cả tinh hoa mà Ork không muốn hoặc không có để dạy cho nhân loại, bao gồm các thể chế chính trị mới, hệ thống văn hóa và tiêu chuẩn đạo đức cơ bản, khái niệm về giá trị nghệ thuật, giá trị tinh thần, ma pháp có hệ thống v.v..
Vì thế, trong kỷ thứ tư, ngôn ngữ nhân loại tiếp nhận cải biến toàn diện.
Nhân loại mượn ký tự của ngôn ngữ Elf phiên âm lại ngôn ngữ Ork, cùng như đem phần lớn từ vựng của ngôn ngữ Elf trực tiếp sử dụng trong ngôn ngữ nhân loại, sử dụng như một loại ngôn ngữ cấp cao mang tính trang trọng.
Về mặt ngữ pháp, nhân loại giữ lại cách hành văn cơ bản của Ork, nhưng cải tiến thêm một số chỗ với cảm hứng lấy từ ngữ pháp Elf, chủ yếu để dùng với vốn từ vựng mượn của Elf.
Kết quả là ngôn ngữ nhân loại nếu chỉ dùng trong văn nói, Ork có thể hiểu, Elf cũng có thể hiểu sơ, còn trong văn viết thì nếu không được học qua cách phiên âm ngôn ngữ Ork thì cả Ork lẫn Elf đều không hiểu được chữ viết nhân loại.
Điều này dẫn tới kết quả là các giáo trình đào tạo ở cấp phổ thông sẽ chỉ dạy bằng ngôn ngữ nhân loại, trong khi đa số các ngành học chuyên môn dạy ở học viện đều yêu cầu phải có kiến thức về ngôn ngữ Elf.
Thông thường trẻ em nhà có điều kiện sẽ được bố mẹ cho đi học vỡ lòng cấp phổ thông khi lên sáu hoặc bảy tuổi, và với tốc độ bình thường thì có thể hoàn thành chương trình phổ thông trong hai đến ba năm.
Không có một tiêu chuẩn thống nhất cho việc tốt nghiệp hay chứng nhận hoàn thành các khóa học phổ thông nói chung, chỉ có một số học viện có cấp các chứng nhận hoàn thành khóa học nghề nhất định như một phần của dịch vụ đào tạo nghề, và giá trị của các chứng nhận này hoàn toàn tùy thuộc vào danh tiếng uy tín của từng cơ sở đào tạo, thường thì chỉ có giá trị cấp địa phương.
Đối với các học viện, tình hình có vẻ quy củ hơn.
Hầu hết các học viện đều yêu cầu đầu vào đối với học viên là phải đọc thông viết thạo.
Các học viện này thường tổ chức các kỳ thi đầu vào để sàng lọc và đảm bảo chất lượng đầu vào, hoặc đơn giản là để kiếm thêm một chút tiền học phí dự bị, dành cho các học sinh nhà có điều kiện nhưng học dốt.
Ở cấp độ học viện, tuy cũng có các học viện cấp địa phương, nhưng bản thân chúng cũng có hình thức cấp bằng tốt nghiệp, đặc biệt là đối với các ngành chuyên môn có hệ thống và có tổ chức, ví dụ các ngành tài chính kế toán, nghiên cứu kỹ thuật, các chức nghiệp chiến đấu cấp độ tinh anh như chiến sĩ, kỵ binh, không quân, ma pháp sư, v.v..
Các học viện muốn đào tạo các ngành chuyên môn này và được công nhận bằng tốt nghiệp họ cấp một cách rộng rãi thì phải vượt qua các kỳ sát hạch và kiểm tra định kỳ của các hiệp hội chức nghiệp tương ứng, ví dụ các công hội đánh thuê, hiệp hội thương nghiệp, các liên minh nhân loại hoặc Elf.
Cũng vì vậy, mức học phí của các học viện rất cao, gấp mười lần học phí của các cơ sở đào tạo cấp phổ thông trở lên.
Nói nôm na thì cấp độ học viện ở đây tương đương với cấp đại học ở thế giới của Thiên Minh vậy.
Giáo trình của cấp học viện, vì thế, cũng có một số tiêu chuẩn nhất định, tùy chuyên môn.
Các giáo trình này được soạn thảo với nội dung được phân loại thành các trường phái học thuật, và không bị giới hạn nghiên cứu, tức là cùng một môn học chuyên môn, sinh viên một học viện có thể học giáo trình theo một trường phái do giảng viên chỉ định, hoặc tự tham khảo học hỏi từ các giáo trình theo các trường phái khác, nếu có hứng thú.
Đối với các cơ sở đào tạo kiến thức và nghề nghiệp phổ thông, cũng có các chứng chỉ, chứng nhận chuyên môn nghề nghiệp, nhưng chúng không được cấp bởi các đơn vị đào tạo, mà việc cấp chúng do các hiệp hội, công hội phụ trách, ví dụ như chứng chỉ nghệ nhân thợ mộc, chứng nhận nhân viên kỹ thuật chế tạo kiếm, nỏ v.v.. sẽ do các công hội, hiệp hội thợ mộc địa phương hoặc các liên minh quân sự địa phương cấp, thông qua các kỳ thi lấy chứng chỉ.
Quay lại tình huống của bé Heiss, cô bé trước mười tuổi đã hoàn thành một chương trình giáo dục phổ thông và có một chút kiến thức về nhạc lý, coi như có thể làm nghệ sĩ biểu diễn, bởi lúc còn nhỏ gia tộc còn có điều kiện thì bé Heiss ước mơ làm nghệ sĩ biểu diễn.
Vốn từ vựng của bé Heiss vì thế cũng tương đối phong phú, bao gồm cả một chút ngôn ngữ Elf.
Vì vậy khi lên chín tuổi và được xác định có thiên phú ma pháp, cô bé được gia tộc vun đắp cho đi học tại một học viện địa phương và thi đậu đầu vào, ghi danh vào học.
Heiss bị buộc thôi học sau chưa đầy một năm vì gia tộc phá sản, không có tiền đóng học phí.
Với nền tảng văn hóa như vậy, công tác dạy dỗ Heiss về kiến thức cơ bản không mất quá nhiều thời gian.
Chặng đường từ ReichFliess đến PlattMeer không ngắn, nhóm RBS đi với tốc độ du lãm thì cần tốn khoảng ba mươi ngày mới đến nơi.
Trong ba mươi ngày này, nhiệm vụ của Heiss là phải hoàn thành việc củng cố kiến thức nền tảng phổ thông và ngôn ngữ Elf nhập môn chuẩn bị cho việc học chuyên môn sâu hơn về lĩnh vực ma pháp.
Đối với kiến thức nền tảng phổ thông, Ngài Aber yêu cầu Heiss đọc lại một lượt tất cả các sách và tài liệu phổ thông cơ bản vỡ lòng, sau đó thực hiện một bài kiểm tra vấn đáp kỹ lưỡng với ban giám khảo bao gồm Sagviel, Juggenauf, Sonnig, Siri và Perl, kéo dài suốt ba tiếng đồng hồ.
Thông qua bài kiểm tra dài này, các thanh niên nhóm RBS phải đảm bảo cho Ngài Aber rằng mọi kiến thức cơ bản ở cấp độ phổ thông đều được Heiss nắm bắt đầy đủ và chính xác.
Vốn các kiến thức này không có gì khó khăn, trình độ một em bé mười tuổi có thể nắm bắt được, nhưng cốt lõi của yêu cầu Ngài Aber đưa ra là nền tảng phổ cập kiến thức cơ bản của Heiss không được phép có bất cứ lệch lạc nào.
Chúng bao gồm bộ ngôn ngữ nhân loại tiêu chuẩn, có thể đọc, viết, hành văn trình bày không sai lỗi ngữ pháp hay chính tả, cũng như các kỹ năng cơ bản về toán, các nguyên lý cơ bản về lý và thường thức về sinh học, kỹ thuật sinh hoạt và các mốc lịch sử quan trọng.
Heiss tốn bảy ngày để hệ thống hóa và chấn chỉnh toàn bộ kiến thức, thực hiện thi vấn đáp, và bổ túc chỉnh đốn các kiến thức sai lệch.
Kế tiếp, cô bé bắt đầu được Juggenauf chỉ dạy và lên kế hoạch rèn luyện thể chất.
Do quanh năm làm việc lao động tay chân, lại trong tuổi ăn tuổi lớn, thể chất hiện tại của Heiss tương đối tốt.
Định hướng của cô bé cũng không phải đi theo đường cận chiến, làm chiến sĩ, cho nên Juggenauf cũng không chỉ bảo quá nhiều thứ.
Hắn giao cho Heiss một bộ bài tập vận động thể dục hàng ngày kéo dài ba mươi phút, yêu cầu Heiss bắt buộc phải duy trì tập luyện hàng ngày, không bỏ dở với bất cứ lý do nào.
Theo lời hắn, bộ bài tập thể dục này nếu được tập luyện lâu dài sẽ giữ cho thể lực và sức bật cơ thể luôn ở trạng thái tối ưu, cơ bắp mạnh mẽ và khớp xương dẻo dai chịu lực tốt.
Song song đó, Juggenauf cũng cho Heiss tập các động tác vật cơ bản, cách sử dụng kiếm và đao cơ bản, cũng như các kỹ năng phòng thủ với khiên, và các bài tập né tránh, nhảy lui và leo trèo, cũng yêu cầu cô bé trong hai năm tới luôn tập chúng ít nhất một giờ mỗi ngày.
Với Sagviel, ông chú Menteur này dạy cô bé các kỹ năng đi rừng và sinh tồn độc lập khá hữu ích, ví dụ như cách tìm nguồn nước, phân biệt các loại cỏ cây ăn được và không ăn được, cách chuẩn bị và dựng lều trại cá nhân để sinh tồn một mình giữa hoang dã, cách đặt bẫy, dựng trận địa mai phục cảnh báo kẻ địch ban đêm, cũng như cách chế tạo một số vật dụng cơ bản thiết yếu từ tài liệu sẵn có trong tự nhiên (nồi, niêu, giày, trang phục, mũ, vũ khí thô sơ v.v..).
Mỗi ngày Heiss cần dành cho ít nhất một buổi sáng đi theo Sagviel học tập.
Vào buổi chiều, cô bé cùng Perl học tập ngôn ngữ Elf chuyên sâu và kiến thức cơ bản về ma pháp.
Phần lớn các kiến thức ma pháp của nhân loại là do Elf truyền thụ và dựa trên cơ sở lý thuyết ma pháp của Elf.
Do đó việc thông thạo ngôn ngữ Elf đóng vai trò cốt lõi.
Heiss đã từng học ngôn ngữ Elf, nhưng chỉ trong một năm, sau đó hoang phế sáu năm dài, nhiều từ vựng đã mai một, nên việc học này là khó nhằn nhất với cô bé.
Buổi tối, Heiss phải làm bài tập được giao, và theo yêu cầu của Ngài Aber, ghi chú lại toàn bộ những kiến thức học được trong ngày từ mọi người, không chỉ Perl.
Để tạo điều kiện cho Heiss học tập, Ngài Aber cũng phí sức không ít.
Việc “chăm sóc” ngài Aber chỉ mang tính hình thức, thực tế hắn tự chăm sóc chính mình, chỉ có công lao là tính lên đầu Heiss.
Ngoài ra, các buổi chiều, Perl và Heiss (mặc váy maid) được đặc cách ngồi trên lưng Ngài Aber để dạy và học, trong khi cả nhóm tiếp tục di chuyển.
Thi thoảng, hắn cũng không nhịn được mà chen mồm vào tham gia công tác giảng dạy của Perl, chủ yếu liên quan đến các chủ đề ngôn ngữ có gốc gác xa xưa từ kỷ thứ tư về trước.
Perl tuy tinh thông ngôn ngữ Elf, nhưng kiến thức của cô dù sao cũng chỉ đến từ học viện nhân loại, chịu ảnh hưởng giới hạn kiến thức ghi chép lại từ chủng tộc Elf, rất nhiều cách giải nghĩa, mạch lập luận trong ngôn ngữ Elf Perl chỉ có thể biết và thuộc lòng, mà không hiểu rõ tại sao.
Ở nhưng thời điểm này, Ngài Aber sẽ xen mồm vào giải thích.
Hành vi này khiến Sonnig và Siri càng vững tin hơn vào giả thiết ngài Aber là Sprungelf.
Chỉ có Juggenauf thường cau mày suy nghĩ, có chút hoài nghi khác.
Sau mười lăm ngày di chuyển từ ReichFliess, đến trưa ngày Herbo4 năm KF351, nhóm RBS cùng Heiss và Ngài Aber đặt chân đến FeldHirsch, thị trấn biên giới nằm giữa Trung du LangBang và Bình nguyên SokWeiss.
Đây là một thị trấn nhỏ, không có tuyến đường vận tải lớn đi qua, dân cư cũng không đông đúc.
Nó chỉ có một con đường lộ vắt qua, tuyến đường này đi xuyên biên giới, từ lãnh địa do Elf quản lý đi về hướng một thị trấn khác ở phía Bắc.
Toàn bộ kinh tế của thị trấn này xoay quanh một thực thể, đó là trạm trung chuyển hàng hóa của tập đoàn ObstBeeren, do gia tộc Beeren kinh doanh.
Gia tộc Beeren của Perl cực kỳ giàu có và có ảnh hưởng chính trị lớn.
Một trong những biểu tượng của sự giàu mạnh của gia tộc này là tập đoàn ObstBeeren, kinh doanh đa lĩnh vực từ cung cấp khoáng sản, lâm sản, thực phẩm và tài nguyên sơ chế và tinh chế chủ yếu bắt nguồn từ Liên bang Núi cao: HokBerg.
Liên bang Núi cao này là một thể chế thành bang với mỗi bang do một thế lực thị tộc do một Sprungelf gốc Berg hoặc Hok lãnh đạo.
Bọn họ có nền kinh tế và luật pháp riêng, nhưng có nhiều nét tương đồng về quan điểm văn hóa, chính trị, và có một đội quân chung.
Quân đội của Liên bang Núi cao gồm bốn quân đoàn chủ lực: Quân đoàn Cao nguyên Babayaga, Quân đoàn Đặc chủng Sơn cước SaeugeTier, Quân đoàn Không quân RotBaron và Quân đoàn Thủ vệ Verteidig, trong đó Quân đoàn Không quân RotBaron là ngôi sao sáng.
Không chỉ ở Elfheim, tất cả mọi người trên thế giới đều công nhận Quân đoàn Không quân RotBaron là lực lượng không quân mạnh nhất.
Còn các Quân đoàn còn lại của HokBerg tuy không yếu nhưng không có số má lắm khi bị đem so với các lực lượng vũ trang đứng đầu các binh chủng khác.
Quay trở lại câu chuyện thị trấn FeldHirsch, ban sơ nó được xây dựng như một điểm trung chuyển tiền tiêu của tập đoàn ObstBeeren tại biên giới công quốc Plattwald-Niede.
Tập đoàn ObstBeeren dùng nơi này để thu gom tập hợp các loại tài nguyên thô vận chuyển từ các đối tác từ Liên bang HokBerg về làm phân loại trước khi được đẩy đi các địa phương khác, nơi có các cơ sở chế biến sản xuất của họ.
Cùng với quy mô và sự tăng trưởng của ObstBeeren, cơ sở trung chuyển này cũng lớn dần về kích thước và kéo theo nhiều người dân đến sinh sống và làm việc, rồi trở thành một thôn trấn được chính thức công nhận từ gần một trăm năm trước với cái tên FeldHirsch.
Với bối cảnh hậu trường như vậy, về cơ bản thì Perl Beeren ghé thăm FeldHirsch không khác gì chủ tịch đi thăm hợp tác xã.
Ở đây, lời nói của Perl là ý chí tối cao.
Ít nhất đối với toàn thể cư dân thị trấn là vậy.
Chí vì hoàn cảnh như vậy, Perl và Ngài Aber cảm thấy đây là nơi thích hợp để ngài Aber điều chế tài liệu, chuẩn bị thi pháp tạo ra thân xác mới thay cho con Hogcrodile hiện tại.