Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Lý Hủ và ân sư Đàm Đài Công dẫn 2 đường đại quân, phụ trợ lẫn nhau, khí thế hùng mạnh nhuệ khí bừng bừng chừng như không thể ngăn cản, đánh cho quân đóng giữ của Thổ Phiên liên tục lụi bại, cuối cùng 2 quân gặp nhau ở một trấn nhỏ tên là Sa Lý tại giữa Dương Quan và Ngọc Môn Quan.
Chiến sự đánh đến tình huống như thế này có thể nói chỉ cần vững bước thúc đẩy về trước, đợi đánh hạ Ngọc Môn Quan là có thể một lần bắt gọn Thổ Phiên. Tất nhiên Đàm Đài Công rất mừng rỡ, ngày gặp nhau tại trấn Sa Lý, gã triệu tập đồng loạt chúng tướng sĩ cùng Lý Hủ thương nghị chiến sự.
Nhưng nhìn thấy Hoàng đế, Đàm Đài Công mới phát hiện tinh thần Lý Hủ làm người ta không an tâm, từ trước đến giờ hắn cẩn trọng làm việc như gió, nhưng lúc đang thương nghị đại sự hành quân rõ ràng Lý Hủ thất thần lơ đãng.
Không chỉ mỗi Đàm Đài Công phát hiện, đôi mắt sắc của tướng quân cũng khá ngạc nhiên. Gặp nhau rồi Đàm Đài Công có nghe kể về ít tình hình trong quân, gã khẽ ho khan vài tiếng nhắc nhở Lý Hủ hoàn hồn.
Lý Hủ rốt cục khôi phục lại chút thần sắc, hắn không lộ ra vẻ lúng túng bất ngờ, cúi đầu liếc nhìn nửa cuốn địa đồ da dê, thuận tiện nói: “Hợp lại thành một quân, ngày mai trực tiếp đi Dương Quan.”
“…” Đàm Đài Công ngẩng đầu đánh giá Hoàng đế ngồi trước án thư, quả thật muốn hỏi thẳng binh pháp hắn học những năm qua đều đã bỏ đi đâu rồi, “Hoàng thượng, những ngày trước quân Thổ Phiên đã chi viện cho Ngự Thủy Quan, nên giờ binh lực ở Ngọc Môn Quan suy yếu, nhìn tổng quát tình thế, hẳn đi Ngọc Môn Quan mới là thượng sách.”
“Đánh Dương Quan.” Giọng Lý Hủ bình tĩnh, nhưng không chừa chỗ trống cho người ta phản bác, hắn cuốn địa đồ trong tay, nói, “Trẫm đã quyết định, ngày mai khởi hành. Đều lui ra đi.”
“….”
Hoàng đế đã nói đến mức ấy, trên mặt cũng có vẻ khá giận dữ, các tướng quân không dám nhiều lời, vội vã chắp tay lui ra.
Nhưng Đàm Đài Công không rời đi. Gã tốt xấu gì cũng đã phụ tá ba đời Hoàng đế lão thần của Tề quốc, quỷ mưu khiến người kính nể, là ân sư của Hoàng đế, thấy bốn phía không còn người ngoài, gã nói thẳng ra: “Hoàng thượng chắc hẳn đã rõ, trong 10 ngày đánh hạ Thổ Phiên là không thể.” Gã đã nghe nói về ước hẹn một tháng của Hoàng đế với Chung Dật, tính thời gian, chỉ còn nửa tháng nên nói như thế.
Lý Hủ hỏi: “Ai nói không thể? Chỉ cần trẫm muốn, thì không có chuyện không thể làm.”
“Chắc hẳn Hoàng thượng hiểu được, pháp dụng binh là dùng binh lực ít nhất đổi lấy kết quả chiến thắng lớn nhất. Dùng trọng binh đi đánh Dương Quan, có lẽ đánh hạ được, nhưng tổn hại với Tề quân quá lớn, rồi sau đó nếu hết sạch sức lực, thì làm sao có thể tấn công những vùng đất của nơi khác?”
“Trẫm chỉ cần Đôn Hoàng.”
Tính khí của Đàm Đài Công rốt cục tiêu hao hết, nghĩa chính từ nghiêm nói: “Hoàng thượng, được xem là người đứng đầu Tề quân, thì cần phải buông tư tình nhi nữ xuống, chịu trách nhiệm với bốn mươi vạn Tề quân. Bằng không, thẳng thắn cởi bỏ binh phù, đi bồi bạn với người kia đi!”
Đây cơ hồ là một câu nói mạo phạm, sợ rằng trong thiên hạ không có người thứ hai dám nói ra, gã vừa nói xong, cung nữ thái giám đều căng thẳng nín thở, bốn phía thoáng chốc tĩnh lặng như chết.
“…”
Lý Hủ giương ánh mắt đầy nguy hiểm lên, khiến Đàm Đài Công hơn 50 tuổi cảm thấy một cơn áp bức phả vào mặt, nhưng gã vẫn thẳng lưng, không hề lùi bước.
Gã chinh chiến nửa đời vì Tề quốc, uy vọng là cái mà người thường không thể so sánh được, thời điểm thế này, gã không đứng ra nói chuyện thì không còn ai dám cả. Nhưng đến cuối cùng, Đàm Đài Công đức cao vọng trọng đánh giá cao thận phận của mình rồi, gã vẫn bị Hoàng đế lạnh mặt mời ra khỏi doanh trướng.
***
Ngay đêm đó ở Lý Sa, Lý Hủ mơ một giấc mộng.
Trong mộng, hắn lần mò tiến bước tại một hành lang uốn khúc đen như mực, ánh trăng sáng trong, treo lơ lửng trên trời đêm, nhưng không rọi sáng con đường trước mắt hắn. Hắn không biết mình muốn đi về hướng nào, thân thể không nằm trong kiểm soát, nhưng bước chân lại rất kiên định, có mục tiêu rõ ràng.
Trong một khắc Lý Hủ phát hiện ra hắn đang trong mộng cảnh, bởi vì dưới trăng, Chung Dật đang vô cùng hăm hở, chu y tử thụ, là dáng vẻ lần đầu gặp gỡ. Sau khi lấy lại phản ứng, hắn nhìn cách bài trí xung quanh, muốn mỉm cười, nhưng đây không phải là thư khố Quốc Tử Giám tại Dần quốc năm đó.
Sau khi biết đây là mộng cảnh, Lý Hủ bình tâm hơn nhiều, hắn lặng lẽ liếc Chung Dật, nhưng đối phương vẫn luôn nhắm hai mắt.
Này không giống với trong ký ức.
Rốt cục Lý Hủ không giữ được bình tĩnh, hắn bước vào ngưỡng cửa, chậm rãi đi đến gần, tiếp cận không được mấy bước thì ngừng lại.
Ánh trăng vẫn trong, dung nhan vẫn đẹp đẽ, nhưng hắn nhìn thấy bên ghế tựa của Chung Dật bỗng có thêm một cây gậy, lặng yên không tiếng động đến nỗi làm người hoài nghi có phải từ lúc đầu nó đã ở đấy không. Ngạc nhiên lẫn ngờ vực khiến Lý Hủ dần nín thở, nhìm chăm chăm Chung Dật, lần thứ hai bước lên, rồi ngừng bước.
Chung Dật thay đổi. Ăn vận thay đổi, dáng dấp cũng thay đổi, năm tháng bắt đầu để lại vết tích trên mặt mày y, dù cách đến mấy trượng, Lý Hủ vẫn thấy được dấu vết tang thương trên gương mặt ấy.
Thì ra là, mỗi một bước hắn bước, Chung Dật sẽ càng già thêm. Cuối cùng Lý Hủ cũng vỡ lẽ, lòng hắn dần đắng ngắt.
Lý Hủ không muốn đến gần hơn nữa, hắn không muốn lại thấy Chung Dật già đi, hắn sợ càng lại gần, Chung Dật sẽ hoàn toàn biến mất. Nhưng Lý Hủ cũng muốn được gần thêm nữa, muốn xông vào quá khứ như vồ lấy con mồi, không cho phép Chung Dật chạy trốn từ những kẻ ngón tay.
Trong sự mâu thuẫn, hắn đứng tại chỗ, tiến thoái lưỡng nan.
Khoảng cách này giống như năm đó, Chung Dật đứng bên bình phong, chắp tay nói y đến là vì muốn nói chuyện với Hoàng thượng. Mà Lý Hủ lại từ chối, sau đó bọn họ không còn bộc lộ tâm tình nữa, dù chỉ là một lần.
Nhưng hiện tại, hắn muốn được quay lại cơ hội lúc đó, chỉ là giờ đây, nửa bước cũng không nhấc lên nổi chính là hắn. Thật mỉa mai làm sao, đã từng là thứ từ chối không chút do dự, mà giờ lại thành mong muốn xa xỉ, có vài ngả đường, một khi bỏ qua rồi sẽ không tài nào quay đầu lại nữa.
Hắn vốn không phải tính cách xuân bi thu buồn, Lý Hủ không nghĩ linh tinh nữa. Tiến lên hay lùi lại, chọn một cái, mặc dù biết đây chỉ là mơ, song Lý Hủ không muốn tùy tiện qua loa.
Cuối cùng hắn đưa ra quyết định.
Tiến lên. Bất kỳ một ai hơi hiểu hắn thôi, cũng biết Lý Hủ sẽ chỉ đưa ra lựa chọn như vậy, dù chỉ là một tia hi vong mờ mịt, hắn cũng không muốn bỏ qua.
Không tiếp tục do dự lưỡng lự, hắn dứt khoát nhanh chân bước lên, Chung Dật không cử động, đến khi gần đối diện y, hắn vươn tay dốc sức nắm chặt tay Chung Dật, sức bỏ ra rất lớn, khiến đối phương phải nhíu mày mở mắt ra.
Trẫm thắng, Lý Hủ nghĩ thầm.
Đến bước này, không biết trong lòng hắn tự mãn nhiều hơn, hay là vui mừng bất ngờ nhiều hơn.
Nào ngờ đối phương còn chưa nhấc mi mắt lên được một nửa, tầm mắt còn chưa kịp định hình, thì trong tay Lý Hủ buông lỏng ra, Chung Dật như hóa thành sương mù, bỗng nhiên biến mất không còn dấu vết.
Lý Hủ chấn kinh, giật mình tỉnh dậy giữa lúc trời đêm u tối nhất lạnh lẽo nhất.
“Thay y phục.”
Hoàng đế đột nhiên bật dậy làm cung nữ với thái giám gác đêm hoảng sợ giật mình, vội xách đèn tiến vào, tuy không biết Hoàng đế muốn làm gì, nhưng chỉ có thể nghe theo, tay chân nhenh nhẹn khoác y phục cho hắn. Lý Hủ mặc xong, liền xốc rèm che của lều trại lên, bước nhanh ra ngoài không ngoái đầu lại.
Trong đại doanh Tề quân im ắng, một con ngựa lao vút đi.
***
Binh sĩ đóng giữ thấy rõ người cưỡi ngựa thì thất kinh vội thông báo với tướng quân, nhanh chóng lập một nhóm kỵ binh sốt ruột đuổi theo ngự giá bảo hộ. Lý Hủ ra roi thúc ngựa chạy dọc theo đường tắt về thẳng Ngự Thủy Quan, đến hoàng hôn ngày hôm sau, con ngựa Đại Uyển sức cùng lực tận, đến được nơi cần đến.
(*) Ngựa Đại Uyển, hay ngựa Hãn huyết mã là một giống ngựa ở vùng Trung Á tại vùng Đại Uyển và được lưu truyền trong sử sách của Trung Quốc gắn với cuộc chiến Thiên Mã.
Nhưng cuối cùng hắn vẫn không đến kịp.
Lý Hủ xông vào trong phòng, Thái y đang cảm thán rời đi chuẩn bị viết tin báo tang, các cung nữ đang chuẩn bị chuyển thi thể của Chung Dật ra phòng sau báo tin. Thấy Lý Hủ xông vào, sắc mặt mọi người biến đổi, nhóm năm nhóm ba quỳ gối, hô vạn tuế.
Hồ thái y quỳ gối đầu tiên, run run nói: “Hoàng thượng nén bi thương…”
Lý Hủ không muốn tin không muốn nghe lời ông nói, hắn bước thẳng đến trước giường, Chung Dật khép chặt hai mắt nằm trong đệm chăn, bên gối là chiếc rương gỗ sồi, nếu bỏ qua sắc mặt tái nhợt, thì gương mặt y bình thản như đang chìm vào giấc ngủ.
Tay Lý Hủ run run phủ lên tay y, lòng bàn tay hắn cực nóng nhưng không cách nào truyền nhiệt cho bàn tay ấy, mãi đến khi chút nhiệt độ ít ỏi còn sót lại trên mu bàn tay dần dần tan đi.
Chung Dật giống như trong giấc mơ, cứ thế lẳng lặng biến mất trước mắt hắn, ngay trong tay hắn.
Hồ thái y thấy Lý Hủ không phản ứng, ông lại nói: “Hoàng thượng nén bi thương… Chung đại nhân đã về cõi tiên rồi!”
Lời nói đó không khác gì giọt nước tràn ly, Lý Hủ quát to “Không!” rồi ra sức kéo Chung Dật lên khỏi đệm giường, đầu Chung Dật vô lựa ngửa ra sau, độ cong của cổ vẫn đẹp đến thế, thậm chí có thể nhìn rõ vết cắn lần trước hắn nổi giận lưu lại, nhưng thân thể Chung Dật đã hoàn toàn lạnh lẽo.
Lý Hủ triệt để hoảng loạn, rõ ràng đã nói chờ hắn 1 tháng, mà sao chưa đến 20 ngày lại nói đi là đi cơ chứ.
Chung Dật gần như gánh lấy toàn bộ yêu và hận cả một đời này của hắn, sao có thể để y tay không, ung dung rời đi như thế.
Lý Hủ chưa từng hiểu hối hận là thế nào, nhưng hiện tại trong lòng hắn ngoại trừ hối hận thì không còn gì khác. Hắn vứt bỏ tất cả không ngừng không nghỉ chạy đến đây, bởi hắn không cần Thổ Phiên, cũng không muốn mạng của Chung Thế An, hắn chẳng muốn gì cả, hắn chỉ muốn sau cùng lại có thể nói vài lời với Chung Dật.
Không tiếp tục che che giấu giấu, không tiếp tục làm bộ làm tịch, đối đãi với nhau một cách thẳng thắn, chân thành nói ra đôi câu từ tận đáy lòng.
Năm đó mới quen nhau hắn cảm kích y ra tay giúp đỡ như thế nào, được chỉ dạy thì sản sinh ý ỷ lại vào y ra sao, khi phải so sánh với Thái tử Thù, hắn bị y vứt bỏ thì đau lòng như thế nào, còn cả vươn lên hùng mạnh sau khi trở lại Tề quốc và từng chút từng chút chuyện của 5 năm qua.
Lúc ban đầu chỉ là vì không chịu nói, nhưng ngày hôm nay lại bỗng nhiên phải vĩnh viễn giữ kín tại trong lòng, không còn người có thể nói ra.
Chẳng qua, hắn không biết Chung Dật chờ những câu nói đó của hắn, chờ đến bao lâu rồi.
Cung nữ thái giám câm lặng quỳ gối một bên, không biết nên phản ứng thế nào, trong phòng yên tĩnh rất lâu, rốt cục từ mép giường truyền đến tiếng khóc kiềm nén của Hoàng đế.
Chung Dật đã nói bọn họ sẽ không có kết quả gì tốt đẹp, quả nhiên là vậy, đến chết mới thôi, lời nói còn văng vẳng bên tai mà Chung Dật thì dứt khoát xuôi tay rồi, một đao cắt đứt với hắn.
Bây giờ nhìn lại, đến chết mới thôi vẫn còn là nói nhẹ, ngay cả khi Chung Dật chết đi rồi, hắn cũng không muốn buông tay.
Kiếp này với Chung Dật, tình và nghĩa chung quy không thể nào dung hợp với nhau, mỗi người luôn có tính toán của riêng mình.
Ví như có kiếp sau, hắn nguyện ở bên Chung Dật, nửa bước cũng không rời, một lòng đến chết.
Kiếp này không thể nói ra tình cảm lẫn nhau, tâm ý tương thông, nhưng Lý Hủ biết lòng Chung Dật có hắn, hắn biết chứ, ánh mắt Chung Dật không lừa được hắn.
Nghe nói sau khi người ta chết đi, thần trí chưa tan, vẫn còn quẩn quanh bên người, không biết hồn phách Chung Dật có phải cũng đang quanh đây hay không?
Lý Hủ ôm tia hi vọng cuối cùng, hắn ôm siết thi thể trong ngực, thì thầm trong lòng.
Giả như gạt bỏ tất thảy khôn khéo hỗn loạn, không cân nhắc đến lợi ích của bất kỳ ai.
Giả mà trong lòng ngươi cũng có trẫm.
…Bên cầu Nại Hà, chờ trẫm.