Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Chiều buông xuống, Dick và Lawless theo cửa sau khe khẽ luồn ta khỏi ngôi nhà, nơi Bá tước Risingham đang đóng cùng với đội đồn trú của ông.
Hai người nấp sau bức tường rào để bàn luận xem nên làm gì tiếp. Nguy hiểm rất là ghê gớm, nếu như có kẻ nào đó trong số gia nhân của Daniel trông thấy họ và nổi hiệu báo động, thì mọi người sẽ chạy xô lại và họ sẽ bị giết ngay.
Tuy thế đối với Dick và anh chàng lang thang già đời thì ở lại Shoreby hay tìm cách ra khỏi thành phố theo đường cánh đồng cũng đều nguy hiểm như nhau, vì ở đó họ có thể chạm trán với đội tuần phòng.
Không xa bức tường rào, trên dải cỏ, hai người nhìn thấy một chiếc cối xay gió, cạnh nó là cái kho khổng lồ chứa bột mì.
- Có nên nằm ở đó cho tới đêm không? - Dick hỏi.
Chẳng có đề nghị nào hay hơn. Hai người chạy tới chỗ kho và nấp vào trong đám rơm. Ánh sáng ban ngày tắt di nhanh chóng, trăng ló ra chiếu sáng tuyết lạnh bằng những dải sáng bạc lóng lánh của mình. Bây giờ đã có thể lẩn đến quán "Dê và Sói" và chút bỏ bộ áo choàng đang còn là tang chứng. Vì sự tính toán khôn ngoan, hai người đi vòng khu bờ biển để tránh việc qua chợ, nơi họ có thể bị nhận ra và bị giết chết.
Con đường của hai người dài. Nó ngược hướng ngôi nhà, theo bờ biển bây giờ đang lặng lẽ và tối tăm, nhưng cuối cùng thì dẫn được họ ra vịnh biển. Dưới ánh trăng hai người nhìn thấy nhiều con tàu đã nhổ neo, đang lợi dụng lúc biển yên để rời khỏi vịnh. Nhiều quán rượu vắng vẻ ven bờ rực sáng mặc dù thành phố cấm đốt lửa vào ban đêm. Không còn những tiếng ồn ào của các dàn đồng ca thuỷ thủ ở các quán xá vọng ra.
Vén cao tấm áo choàng tu sĩ, Dick và Lawless vội vàng gần như chạy, dọc theo lớp tuyết sâu, xuyên qua các mê cung rắc rối tạo nên bởi các đống rác đủ loại, mà người ta quẳng ra ven bờ biển. Họ gần như đã đi qua vịnh thì bỗng cửa một quán rượu bất ngờ mở ra, luồng sáng từ đó lùa ra ngoài và dọi vào họ. Hai người lập tức dừng lại làm ra vẻ như đang mải mê trò chuyện.
Từ quán rượu ba người tiếp nhau đi ra, tiến lại phía sau lưng họ. Cả ba đều chuyệnh choạng, rõ ràng họ đã chè chén suốt ngày. Họ bước thấp bước cao, người cao nhất trong bọn họ nói to và nấc liên tục:
- Bảy thùng rượu Pháp Gascony, loại tốt nhất - Tay này nói - con tàu tốt nhất của cảng Dartmouth có hình Đức Mẹ mạ vàng, ba mươi pound các đồng tiền vàng quí giá ...
- Tớ cũng bị mất một món lớn - người khác ngắt lời - Tớ cũng bị mất không ít, bố Arblaster ạ. Vào ngày thánh Martinmas chúng nó cũng lấy trộm của tớ năm silinh và cái túi da đáng giá đến mười pence.
Những lời này làm tim Dick nén ép lại. Anh nhớ tới người thuyền trưởng không may, con người đã bị khánh kiệt sau khi mất chiếc "Hy vọng tốt lành ". Cuộc gặp gỡ nhắc nhở Dick về việc anh đã sử dụng con tàu trái phép, và công việc của anh đã kết thúc thảm hại ra sao. Cả hai người - Dick và Lawless - vội quay đi để họ không nhận ra mình.
Không biết sự kì diệu nào đã cứu sống con chó trên tàu "Hy vọng tốt lành" và quay trở lại được Shoreby. Lúc này nó đang đi theo sau người thuyền trưởng mất tàu. Sau khi hít không khí và dỏng đôi tai, con vật bất ngờ chạy bổ về đằng trước, sủa điên cuồng vào hai vị tu sĩ giả mạo. Chủ nhân của nó loạng choạng đi theo.
- Này, các bạn bè thân mến! - Ông ta kêu lên - Chỗ các cậu có đồng xu nào để cho một thuỷ thủ già khốn khổ, đã trắng tay vì bọn cướp biển không? Vào thứ tư tớ còn có thể dìm cả hai cậu vào thùng rượu mà hôm nay, thứ bảy, tớ phải đi xin xỏ từng cốc rượu vang! Các cậu thử hỏi Tom-thuỷ thủ nếu các cậu không tin tớ! Bảy thùng rượu vang Gascony tuyệt diệu, con tàu của tớ, của thừa kế cha tớ để lại, có hình Đức Mẹ mạ vàng và ba mươi pound vàng bạc. Ê, các cậu bảo sao? Đấy chúng nó đã cướp bóc của một người đã từng đánh nhau với tụi Pháp! Đúng tớ đã choảng nhau ra trò với tụi Pháp ở trên biển, tớ đã cắt họng tụi chúng nhiều hơn bất kỳ tay thuỷ thủ nào của Darthmouth. Đưa đây cho tớ mấy xu đi!
Dick và Lawless chưa dám trả lời vì sợ ông ta có thể nhận ra họ qua giọng nói. Họ cứ đứng trơ ra như con tàu buông neo mà không biết nên hành động như thế nào.
- Mày làm sao thế, câm à, thằng bé! - Thuyền trưởng hỏi - Các cậu ơi - ông ta vừa nấc vừa nói tiếp - Chúng nó câm! Tớ không chịu nổi sự bất lịch sự như thế. Một con người lịch thiệp, dù có bị câm chăng nữa thì hắn cũng trả lời khi người ta nói chuyện với hắn chứ.
Trong khi đó Tom-thuỷ thủ, tay đàn ông rất lực lưỡng đã bắt đầu ngờ vực. Anh ta tỉnh táo hơn viên thuyền trưởng mất tàu. Bất ngờ anh ta đi lên trước, thô bạo túm lấy vai Lawless và vừa chửi rủa, vừa hỏi tại sao chúng mày lại giữ chặt cái lưỡi như vậy.
Chàng lang thang cho rằng thế là hỏng cả rồi nên để trả lời, anh ta khéo léo quật tay thuỷ thủ lăn quay ra cát. Lawless kêu lên với Dick để anh chạy theo rồi ba chân bốn cẳng phóng vùn vụt theo bờ biển, len lỏi giữa các đổng rác và thuyền vỡ.
Tất cả chỉ xảy ra trong một thoáng. Dick chưa kịp chạy thì Arblaster đã bấu lấy anh. Tom bò lại tóm chân Dick còn tay thứ ba thì vung con dao găm trên đầu anh.
Không phải là nỗi khiếp sợ dày vò Dick. Nỗi bực mình đang dày vò anh, vì sau khi thoát tay Daniel, sau khi khẳng định sự vô tội của mình với Risingham anh lại rơi vào tay một thuỷ thủ già say rượu! Càng bực mình hơn vì anh cảm thấy mình có lỗi, mình đang mang nợ con người này, con người mà Dick đã cướp mất chiễc tàu và làm đắm nó. Sự thức dậy muộn màng của lương tâm đang to tiếng với chàng thanh niên về điều đó.
- Lôi nó vào quán cơ, tớ muốn nhòm cái mặt nó - Arblaster nói.
- Được rồi, được rồi - Tom đáp - Có điều đầu tiên hãy nhòm vào túi hắn, để cho các chàng vui tính khác khỏi đòi hỏi suất của chúng.
Họ chẳng tìm được một xu nào, mặc dù đã bới từ đầu đến chân. Chả tìm thấy gì ngoài cái nhẫn con có khắc chữ ký của huân tước Foxham. Cả bọn tháo chiếc nhẫn từ tay Dick.
- Quay mặt nó lại phía sáng trăng xem nào - ông ta tóm lấy cằm Dick và quay rất đau phần đầu của anh sang bên có ánh trăng.
- Lạy Đức Bà! - ông ta kêu to - Thằng cướp biển đây mà.
- Thế à! - Tom-thuỷ thủ cũng kêu lên.
- Thề có Đức bà Bordeaux trinh bạch, chính là nó đấy! - Arblaster lặp lại - Này thằng ăn cắp, mày rơi vào tay tao rồi.
Ông ta quát lên:
- Con tàu của tao đâu? Rượu vang của tao đâu? Không dâu, lần này thì mày không chạy thoát đâu! Tom đưa cho tớ sợi dây nào. Tớ sẽ cột thằng ăn cắp biển này cả chân lẫn tay, tớ sẽ nện nó đến nơi đến chốn.
Ông ta vừa nói vừa quấn quanh Dick sợi dây thừng với vẻ hết sức thành thạo của dân đi biển, ông ta nghiến răng xiết các sợi dây, thắt thật chặt các nút buộc. Cuối cùng thì chàng thanh niên biến thành một kiện hàng, không có gì tự vệ và bất động như một xác chết. Arblaster giữ lấy đầu sợi dây thừng cười ha ha, sau đó ông ta bạt cho Dick một cái tát đinh tai rồi bắt đầu vừa quay tròn Dick vừa nện túi bụi. Cơn tức giận như một trận lốc cuộn lên trong ngực Dick, sự giận dữ làm anh nghẹt thở, anh nghĩ rằng mình đang hấp hối. Nhưng khi người thuỷ thủ hết hơi sức vì trò chơi khắc nghiệt quẳng anh ta ra cát, rồi quay đi để bàn bạc với các bạn hữu thì Dick lập tức trấn tĩnh được. Đó là một đợt thở lấy hơi, trước khi họ lại bắt đầu hành hạ thì anh phải tìm cho được một khả năng để đảo ngược tình thế, nhằm thoát khỏi cuộc phiêu lưu nhục nhã và khốn khổ này.
Trong lúc đám thuỷ thủ chiến thắng đang bàn bạc, xem nên xử sự với anh như thế nào thì Dick lấy hết tinh thần và bắt đầu nói bằng một giọng chắc chắn:
- Các vị, các vị sao vậy, hết mất trí khôn rồi à? Trời đang ban vào tay các vị một trường hợp kì diệu để làm giàu. Các vị còn hàng trăm lần đi ra bể, nhưng lần thứ hai như thế này không bao giờ các vị còn gặp được đâu. Thế mà các vị đang làm gì vậy? Các vị đánh đập tôi. Các vị hành động như một đứa trẻ con cáu kỉnh! Mà các vị có phải là trẻ con đâu, các vị là những thuỷ thủ kinh nghiệm, bốc mùi muối bể rồi. Những người như các vị không sợ gì lửa, nước, các vị biết yêu tiếng leng keng của đồng tiền vàng, biết yêu mùi thịt rán chứ! Không đâu, các vị hành động thật là không suy xét.
- Tao biết mà - Tom-thuỷ thủ nói - Bây giờ mày bị trói gô như con lợn thì mày sẽ lừa phỉnh chúng tao.
- Lừa phỉnh các người! - Dick nhắc lại - Ờ, các người ngu ngốc thì lừa phỉnh các người cũng chẳng khó gì! Nhưng nếu các người là những kẻ thông minh, tôi cảm thấy như vậy - thì chính các người sẽ hiểu là được lợi lộc gì. Khi cướp tàu của các người, chúng tôi ăn mặc và vũ trang đầy đủ. Nào các người thử phát biểu xem, ai là người có thể tập hợp được một đội ngũ như vậy? Không phải tranh cãi gì nữa, chỉ có những người có khá nhiều vàng bạc, mà nếu họ đã là người giàu sang nhưng vẫn còn tiếp tục tìm kiếm, không chịu dừng lại trước các vất vả khó khăn thì các người thử nghĩ xem: Liệu có kho vàng được giấu ở đâu không?
- Nó nói về việc gì đấy? - Một trong hai thuỷ thủ hỏi.
- Thế đấy, nếu các người mất một cái tàu cũ và mấy thùng rượu vang chua như dấm - Dick tiếp tục - thì các người hãy quên đi, đó chỉ là đồ bỏ. Tốt hơn hãy mau mau hợp tác vào một việc mà qua mười hai giờ các người hoặc là sẽ giàu có hoặc là sẽ chết. Nhưng hãy nâng tôi dậy đã. Tôi và các người sẽ đi vào chỗ nào đó mà bàn bạc sau vại cay thì hơn vì tôi đang đau, tôi bị lạnh cóng và tuyết nhét cả vào mồm.
- Nó đang cố gắng lừa phỉnh cánh ta - Tom nói một cách khinh bỉ.
- Lờa phỉnh! Lừa phỉnh! - Người thứ ba kêu lên - Tôi muốn nhìn cái người có thể lại lừa phỉnh được tôi! Nhìn thấy ngôi nhà có tháp chuông tớ biết ngay là nhà thờ và theo tớ, bố Arblaster ạ, nó nói có cái gì đúng đấy. Nên nghe hắn nói hết đã chăng? Cánh ta cứ nghe thêm đi đã.
- Tớ sẵn lòng uống thêm một cốc rượu khơ khớ vào, bạn Pirret ạ - Arblaster trả lời - còn cậu nghĩ sao hả Tom? Vì rằng túi nhẵn cả rồi!
- Tôi sẽ trả cho - Pirret nói - Tôi sẽ trả. Tôi muốn biết câu chuyện thế nào. tôi cảm thấy có mùi vàng đấy.
- Này, nếu mà ta lại bắt đầu vào cuộc mềm môi thì công việc hỏng bét cả đấy! - Tom phản đối.
- Bố Arblaster, bố cho phép anh em tự do quá đấy - tay Pirret ngà ngà say nhận xét - Chẳng lẽ bố lại để cho người làm thuê chỉ huy bố à! Phì!
- Khẽ thôi, cậu chàng! - Arblaster quay sang nói với Tom - Cậu nhúng vào việc không phải của cậu để làm gì? Thuỷ thủ không được dạy khôn thuyền trưởng nhá!
- Các vị muốn làm gì thì làm, tôi phủi tay đấy - Tom nói.
- Nâng nó đứng dậy đi - Pirret bảo - tớ biết một chỗ có thể ngồi thoải mái và tha hồ khuyếch khoác.
- Nếu các người muốn để tôi đi được, các vị thân mến, hãy cởi chân cho tôi - Dick nói khi họ dựng anh lên như cái cột.
- Hắn nói đúng! - Pirret bảo - Để thế này nó chẳng đi tới quán được đâu. Lấy con dao của bố ra và cắt dây đi, bố.
Ngay cả Arblaster cũng ngần ngại với đề nghị đó, nhưng vì bạn ông ta bắt ép và Dick có đủ khôn ngoan để giữ vẻ mặt lạnh như tiền mà chỉ nhún vai, nên cuối cùng thuyền trưởng đồng ý cắt sợi dây buộc chân người tù binh. Cái đó không chỉ trao cho Dick khả năng đi lại, mà nói chung còn làm lỏng cả sợi dây. Anh cảm thấy tay ở sau lưng bắt đầu cử động được và hy vọng dần dần sẽ hoàn toàn tháo được ra. Đó là sự gia ơn do tính tham lam và ngốc nghếch của tay Pirret .
Chàng thanh niên đầy bản lĩnh nắm lấy quyền lãnh đạo và dẫn họ vào chính cái quán, nơi Lawless đã uống rượu cùng Arblaster trong lúc biển động. Bây giờ nó vắng tanh, đống lửa lụi đi chỉ còn một đám than cháy gần tàn, đang bốc lên hơi nóng dễ chịu.
Cả bọn ngồi xuống. Chủ quán đặt lên miệng hòm các suất rượu hâm nóng, Pirret và Arblaster duỗi cẳng và xoa tay, rõ ràng họ chuẩn bị ngồi thoải mái hàng giờ ở đây.
Chiếc bàn mà họ ngồi xung quanh giống như mọi chiéc bàn còn lại ở trong quán, tạo thành từ tấm ván vuông nặng nề đặt lên hai cái thùng tô-nô. Bốn người chiếm bốn góc bàn. Pirret ngồi đối diện Arblaster, còn Dick thì ngồi đối fiện với Tom-thuỷ thủ.
- Còn bây giờ, chàng trẻ tuổi ạ - Pirret đề nghị - Hãy bắt đầu câu chuyện đi. Hình như anh quả thực đã xúc phạm Arblaster của chúng tôi, nhưng vì lí do gì vậy? Hãy làm vừa ý bố ấy, hãy chỉ cho bố ấy cách làm giàu và tớ đánh cuộc là bố ấy sẽ tha thứ cho cậu.
Từ nãy đến giờ Dick nói hú họa, nhưng bây giờ dưới sự quan sát của sáu con mắt, nhất thiết phải nghĩ ra và kể một câu chuyện khác thường hòng may ra có thể nhận lại được, một cách cũng thật sự khác thường, chiếc nhẫn hết sức quan trọng đối với anh. Đầu tiên cần phải giành lấy thời gian đã. Càng ở đây được lâu thì họ càng uống nhiều và anh sẽ dễ dàng tẩu thoát hơn.
Dick không giỏi lắm về sáng tác chuyện cổ tích nên câu chuyện mà anh kể ra khiến người đã đọc nhớ đến chuyện "Alibaba và bốn mươi tên kẻ cướp" . Chỉ khác phuơng đông anh thay bằng Shoreby với rừng Tunstall, còn khối lượng kho vàng thì phải tăng lên gấp đôi. Đó vốn là một câu chuyện thật hay, nhưng có một nhược điểm là không thích hợp với bối cảnh đó cho lắm. May là ba vị thuỷ thủ chất phác này mới được nghe lần đầu tiên nên mắt họ muốn chui ra khỏi trán vì ngạc nhiên, mồm thì há ra như con cá măng treo trên quầy của cửa hàng bán hải sản.
Lập tức họ lại gọi suất rượu hâm nóng tiếp theo. Trong lúc Dick trổ hết nghệ thuật để tết lại các tua chỉ cuối cùng của câu chuyện kì diệu, thì suất thứ ba đã bày ra bàn. Những người nhậu ở quán đang trong tình trạng sau đây khi câu chuyện đi đến phần cuối:
Arblaster, ba phần tư say với một phần tư mơ ngủ, bất lực tựa lưng vào ghế băng. Ngay cả Tom cũng hết sức khâm phục câu chuyện và tính cảnh giác của anh ta yếu đi đáng kể. Dick thì đã giải phóng tay phải khỏi sợi dây và sẵn sàng thử vận may.
- Thế cậu là một người trong số họ đấy hở? - Pirret hỏi.
- Họ ép buộc tôi - Dick trả lời - Mặc dù tôi không muốn, nhưng nếu như tôi đạt được một hai bao vàng thôi cho phần mình, thì tôi chỉ là một thằng ngu trong khi mình phải chịu ở lại trong cái hang bẩn thỉu, từng phút chờ đợi hiểm nguy như một tên tốt đen. Bây giờ cánh ta có bốn ngươi. Rất tuyệt! Sáng mai ta sẽ đi vào rừng trước lúc mặt trời lên. Nếu bọn mình có được con lừa thì hay hơn, nhưng vì không kiếm được lừa ta đành phải vác trên bốn cái lưng vậy. Lưng cánh ta thì khoẻ đấy nhưng trên đường về, cả bọn cũng sẽ loạng choạng vì nặng cho mà xem.
- A này, anh bạn, hãy nói cái câu kì diệu để mở hang xem nào - Pirret liếm cái môi khô yêu cầu.
- Không ai được biết câu đó, ngoài hai người chỉ huy trong toán hôm nọ ra - Dick đáp - Và tôi là người thứ ba, vì tôi đã phải ở trong hang và chính tai tôi nghe thấy câu đó vang lên, sau đó thì cánh cửa đá thần bí mở ra. Không ai có thể ngờ rằng câu thần chú lại đơn giản đến vậy.
- Thần chú à! - Arblasterbật kêu lên, ông ta hé một mắt và cọ vào tay Dick - Nói gở. Phù! Không thần chú gì cả! Tớ là người Gia-tô giáo ngoan đạo. Hãy hỏi Tom-thuỷ thủ xem có đúng không.
- Nhưng đó là sức mạnh tinh khiết mà - Dick vội vã biện giải - Nó không dính dáng gì đến ma quỷ cả. Nó liên quan với sức mạnh vạn năng của tự nhiên, của hành tinh và cây cỏ.
- Ê này, đó chỉ là sức mạnh tinh khiết, bố nó ạ! - Pirret nói - ở đó không có tội lỗi ... tớ đảm bảo thế ... Nhưng hãy tiếp tục đi, chàng thanh niên. Câu ấy như thế nào?
- Tớ sẽ nói ngay cho các cậu - Dick đáp lời - Các cậu đang giữ cái nhẫn lấy từ tay tớ ra hở? Tuyệt! Bây giờ hãy chìa tay ra và giữ nó bằng đầu ngón tay ở trước mặt mình, để cho ánh sáng của lò than chiếu vào nó. Thế được rồi! Bây giờ cậu sẽ được nghe câu thần chú!
Ngoái nhanh lại phía sau, Dick thấy giữa mình và cửa không có ai. Anh thầm cầu nguyện. Sau đó vươn tay chộp lấy chiếc nhẫn rồi nhấc tấm ván mặt bàn thúc thẳng vào Tom-thuỷ thủ. Anh chàng khốn khổ loạng choạng kêu la với các thứ đổ lên đầu lên cổ, trước khi Arblaster kịp hiểu đã xảy ra chuyện không hay và tay Pirret kịp định thần, thì Dick đã tót ra cửa, biến vào các đống rác thải trên bờ biển đêm trăng.
Mặt trăng hôm đó rất sáng, tuyết trắng lên khiến bờ vịnh sáng như ban ngày. Chàng Dick đang chạy, áo choàng quấn lên lưng, băng qua các đống gỗ và rác rưởi mà biển quăng lên bờ, nhìn thấy anh ta rất rõ từ đằng xa.
Tom và Pirret chạy theo sau, kêu la inh ỏi. Nghe tiếng kêu của họ, từ mỗi quán ăn lại có một vài thủy thủ nhảy ra cửa và cũng chạy đuổi theo Dick, lát sau thì anh bị cả một đoàn thuỷ thủ la ó chạy theo sau, nhưng thậm chí vào thế kỷ XV các thuỷ thủ cũng chạy rất tồi, hệt như ngày nay. Ngoài ra ngay từ lúc đầu, Dick đã ở cách họ khá xa nên khoảng cách giữa người chạy trốn và đám đuổi bắt tăng lên nhanh chóng. Cuối cùng anh chạy ngoắt vào một ngõ hẹp, dừng lại quay nhìn đằng sau và cười thầm.
Cách anh phải hơn trăm mét là tất cả các thuỷ thủ của Shoreby đang đuổi theo, người nào cũng kêu gào, vung vẩy tay chân, lúc người này ngã vào tuyết, lúc thì người kia khiến người chạy sau ngã đè lên nhau thành từng cụm.
Tiếng gào man dại của họ có lẽ vang tới tận mặt trăng, vừa làm người chạy trốn bật cười, vừa làm anh ta sợ hãi. Nói chung Dick hoàn toàn không sợ đám thuỷ thủ say mềm vì anh tin chắc rằng không ai trong số họ có thể đuổi kịp anh. Dick sợ tiếng ồn ào do đám thuỷ thủ gây nên có thể làm náo động Shoreby, lôi các chiến binh từ các dãy phố lại đây, cái đó mới thực là nguy hiểm. Nhìn thấy một cánh cổng tối ở một góc nhỏ anh liền nấp vào đấy. Đám đuổi theo vụng về, mặt đỏ lên vì chạy nhanh, ngã lăn lộn trong tuyết, kêu la và vung vẩy tay chân chạy ngang qua chỗ anh.
Khá nhiều thời gian trôi qua, cuộc rượt đuổi của đám dân từ cảng vào thành phố mới kết thúc và trật tự mới được lập lại. Tuy vậy rất lâu sau đó trên mọi ngả đường của thành phố hãy còn lác đác tiếng kêu của các thuỷ thủ say rượu, lang thang vì chưa tìm được đường về. Họ gây nên những cuộc cãi cọ hoặc xô xát với nhau, hoặc với đám lính đang canh gác.
Một giờ nữa trôi qua, anh chàng thuỷ thủ cuối cùng mới làu bàu quay về đến vịnh cảng, ngồi vào quán rượu quen thuộc. Anh ta tất nhiên chẳng thể nói được rằng vừa rồi đã đuổi theo ai. Vậy nên sáng hôm sau đã xuất hiện không ít những câu chuyện huyền thoại khác nhau, rồi chẳng mấy chốc thì cả thành phố Shoreby đều tin rằng đêm qua quỷ sứ đã hiện hình, lang thang trên các phố của họ.
Vậy mà cuộc quay về của tay thuỷ thủ cuối cùng, vẫn chưa giải phóng cho chàng Shelton khỏi cái chỗ giam cầm lạnh lẽo tự chọn sau cánh cổng. Các đội tuần tra còn đi đi lại mãi theo các đường phố, họ được nhiều vị cận thần khác nhau cử đi sau khi thấy có việc náo động, các vị có phần hoảng vì tiếng kêu gào của đám thuỷ thủ ở khu vịnh biển.
Đêm đã gần tàn khi Dick mạnh dạn rời bỏ chỗ nấp. Anh về tới quán "Dê và Sói" mạnh khoẻ và không gặp thêm mắc mớ gì, tuy bị lạnh cóng vầ đầy vết bầm tím trên người. Theo quy định của thành phố, quán không để một ánh lửa nào, nhưng Dick sờ soạng tìm vào được cái góc lạnh lẽo dành cho khách trọ, tìm được quần áo, quấn chúng vào vai rồi nép sát vào đám người đang ngủ. Lát sau anh đã ngủ say.