Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Huyền Vũ không dễ dàng
Tuy nói hai người tạm thời làm hòa nhưng bình thường ở chung vẫn ghê răng không ngừng.
Mộ Thanh Yến bận rộn bố trí một chuyến công phạt vào một trong bốn đàn có quy mô về số người lớn nhất, đàn Huyền Vũ, Thái Chiêu không muốn dính líu quá sâu vào nội tình Ma giáo, bèn thảnh thơi rong chơi khắp nơi, phát hiện Tống Úc Chi đứng bên cửa sổ trầm ngâm không quyết, Thái Chiêu hỏi thế nào.
Y hỏi ngược lại: “Có một chuyện ta có chỗ không hiểu. Với năng lực hai người chúng ta mà còn có thể theo thôn dân chỉ điểm từ cửa hông đánh vào đàn Bạch Hổ, lôi đầu não Đàn chủ một phát đánh giết, Mộ Thiếu Quân về võ nghệ dũng khí đều cao hơn hai ta, sao nhất định cứ phải cho cả đám từ cổng chính chậm rãi đánh vào? Thí dụ như đàn Thanh Long kia, đám Đàn chủ chỉ cần bị phục kích đã chết, thế mà hôm qua Mộ Thiếu Quân vẫn dẫn người từ cổng chính đánh một lần. Bỏ gần tìm xa vậy, tốn nhiều trắc trở, chuyện nên làm sao?”
Thái Chiêu thấy Tống Úc Chi hỏi rất có lý, lúc ăn trưa bèn đem ra hỏi Mộ Thanh Yến, sau đó chuốc lấy một tràng mỉa mai của Mộ Thanh Yến, “Mấy câu hỏi này không phải do loại người an nhàn như nàng nghĩ tới, là Tống Úc Chi hỏi rồi. Hứ, không phải hắn được công nhận là nhân tài mới nổi số một trong sáu phái sao? Cơ trí vậy, cần gì phải đến hỏi ta.”
Câu này cũng đâu thể nói thẳng, Thái Chiêu đành uyển chuyển thổ lộ, “Việc này liên quan đến bí mật nội bộ Ma giáo, Mộ Thiếu Quân không tiện nói nhiều.”
Tống Úc Chi ghé mắt ngẫm nghĩ, bèn nói: “Chắc là Mộ Thiếu Quân cười chê ta cao cao tại thượng, bảo tự ta phỏng đoán rồi.”
Thái Chiêu:…
Đợi đến ngày công phạt đàn Huyền Vũ, Mộ Thanh Yến gật đầu cho Thái Chiêu cùng đi, nhưng giữ lại Tống Úc Chi tránh tai mắt người.
Lần này Tống Úc Chi vừa nghĩ đã thông: “Thái nữ hiệp thoái ẩn hơn mười năm, tuy nói thanh danh vẫn còn đó, nhưng người tận mắt nhìn thấy công phu của bà không còn mấy, do đó Chiêu Chiêu sư muội ra tay thì không sao. Còn trên người ta đều là công phu của Thanh Khuyết Tông và Quảng Thiên Môn, dễ bị nhìn ra lai lịch, vẫn nên tránh mặt thì hơn.”
Thái Chiêu hào hứng đem câu này thuật lại cho Mộ Thanh Yến, hy vọng cải thiện chút quan hệ của hai người.
Mộ Thanh Yến: “Suy nghĩ nhiều rồi, ta chỉ là muốn để tay đàn ông đã có hôn ước cách xa nàng một chút thôi.”
Thái Chiêu: …
Chế giễu thì chế giễu, Mộ Thanh Yến đương nhiên không thể để Thái Chiêu một mình đi đánh nhau với giáo chúng đàn Huyền Vũ, thế là để Du Quan Nguyệt đi theo trông chừng bên cạnh cô gái. Chuyện này nếu đổi lại thể loại thẳng tính như Liên Thập Tam, nói không chừng sẽ oán trách rằng đã làm mình bớt đi cơ hội chém giết cho sướng người, song Du Quan Nguyệt lại nhận lấy một cách tốt đẹp, trên đường đi ríu rít, làm Thái Chiêu nhiều lần suýt đã buột miệng.
Du Quan Nguyệt chăm chú nhìn tay đao lấp lánh ánh bạc trong tay Thái Chiêu, ngờ vực nói: “Sao ta nhớ hôm đó trong đàn Bạch Hổ, bảo đao trong tay Phong cô nương là sắc đỏ kim nhỉ?” Hôm đó sau khi cả đám xông vào cung Bạch Hổ, gặp Thái Chiêu chưa đến một khắc, Mộ Thanh Yến lập tức cáu kỉnh rời đi, Thái Chiêu đuổi theo ngay sau lưng, thật ra mọi người cũng chưa nhìn cho rõ.
Thái Chiêu chớp mắt mấy cái: “Du Đàn chủ hoa mắt rồi, đây là màu bạc, không phải đỏ kim.”
Không thể không nói, Mộ Thanh Yến làm việc giọt nước không lọt, tiếng tăm Diễm Dương đao quá mạnh, người nghe qua quả không ít, thế là hắn chuẩn bị trước một thanh đao dài ngắn nặng nhẹ không khác lắm để Thái Chiêu bình thường sử dụng, tránh tiết lộ thân phận cô.
Du Quan Nguyệt sao mà trơn tru, không rề rà chuyện ấy nữa, đổi lại chỉ chọc ghẹo Thái Chiêu. Hồi thì bảo với Thái Chiêu một ngày ba bữa Mộ Thanh Yến cứ phải hỏi tới, lúc thì bảo thái độ Mộ Thanh Yến đối đãi với Thái Chiêu cực kỳ khác với người bên ngoài, thật đúng là như mộc xuân phong phong điều vũ thuận thuận đằng mạc qua qua điền lý hạ*… Mong Phong Tiểu Chiêu cô nương tuyệt đối đừng cô phụ Mộ Thiếu Quân vân vân.
(chỗ này dùng 1 tràng bốn chữ nối tiếp nhau tách từng cụm thì nghĩa ko đủ dính chữ, mình không đủ văn vẻ để chuyển ngữ, đại khái là tỉ mỉ tường tận nhẹ nhàng ấm áp,…)
Thái Chiêu cười tủm tỉm nói: “Du Đàn chủ thích xem thoại bản lắm hả?”
Du Quan Nguyệt không hiểu.
Thái Chiêu nói: “Trong thoại bản ấy, có một loại đàn ông, đối với cô gái mình yêu thương trong lòng khó mở miệng, lại thích lấy tên người ta âm thầm viết văn. Thí dụ như, nếu tên mình là Sơn hay Phong gì đó, thì thích cô nương tên là Thủy là Hoa gì gì, nếu tên là Giang hay Hải thì lại ưng cô nương người ta là Tiểu Ngư Tiểu Hà.”
“Ha ha, thú vị, thật thú vị, chuyện trong sách vở viết ấy mà, phần lớn đều không đáng tin…” Du Quan Nguyệt cười lớn.
Thái Chiêu tủm tỉm: “Thật ư, ta lại thấy rất đáng tin.” — thấy cô hay ngớ người kinh ngạc nhiều lần trước mặt Mộ Thanh Yến, là cho rằng cô trung thực yếu đuối dễ ghẹo sao, cô cũng chỉ cần lộ răng vừa đủ.
Du Quan Nguyệt sáng tỏ trong lòng, lập tức ngậm miệng, sau đó không hé nửa câu về chuyện giữa Thái Chiêu và Mộ Thanh Yến nữa.
Mộ Thanh Yến dẫn người từ cửa chính đánh vào náo nhiệt, Du Quan Nguyệt tìm đường phụ thông vào khu phía sau yên tĩnh của đàn Huyền Vũ, cung thỉnh Thái đại tiểu thư thừa vắng mà vào kiếm tiện nghi, có điều hai người lý giải chỗ kiếm tiện nghi không hoàn toàn giống nhau.
Du Quan Nguyệt dĩ nhiên cho rằng trước tiên chiếm lấy kho tàng binh giới của cải làm quan trọng, thuận tiện còn có thể vớt mấy món đồ hiếm có, Thái Chiêu lại một lời hiệp nghĩa nhiệt huyết, muốn trước tiên chạy tới nhà giam giải cứu người vô tội. Du Quan Nguyệt hơi chần chừ, cô nói luôn: “Mấy hôm nay ở chung, ta thấy Tinh Nhi là một cô nương tốt hiền lành thành thật…”
(*) mình nghĩ chỗ này là Thái Chiêu chơi chữ; anh chàng này tên Nguyệt (trăng) mà thị nữ thì tên Tinh (sao).
Du Quan Nguyệt lập tức nghiêm mặt: “Phong cô nương nói rất đúng, vàng bạc châu báu không có chân dài chạy không thoát, nhưng người trong nhà giam nói không chừng chỉ còn một hơi, chúng ta mau đi giải cứu.”
Ven đường đánh bay vài ba tên lính lác rải rác xong, hai người mò đến địa lao, sau đó giật cả mình.
Không giống như trong địa lao ba tổng đàn trước nhốt rất nhiều sơn dân giáo chúng không phục theo sự cai quản, khắp nơi trên mặt đất đầy cực hình tra tấn quỷ khóc sói gào, trong địa lao đàn Huyền Vũ rõ ràng đều là thứ mặt mũi đầy dữ tợn bề ngoài hung ác, Du Quan Nguyệt thăm dò chút ít thì biết ra đây đều là những kẻ vi phạm giáo quy làm xằng làm bậy chịu hình phạt.
Thái Chiêu không khỏi nói: “Xem ra vị Đàn chủ đàn Huyền Vũ là người không tệ nhỉ.”
Du Quan Nguyệt cảm khái: “Ta cũng nghe nói Thượng Quan Đàn chủ đàn Huyền Vũ là người oai hùng phóng khoáng, trị kẻ dưới rất nghiêm, rất ít khi quấy nhiễu dân chúng.”
“Nghe không giống diễn xuất của Nhiếp Đề, chuyện này phải hỏi thăm rõ ràng, đừng ngộ thương người tốt.”
“Uầy, chuyện này…” Du Quan Nguyệt chần chờ, “Thượng Quan Đàn chủ mấy năm nay mới đến đàn Huyền Vũ, lai lịch trước đó ta không rõ. Song ta nghe nói hắn là tâm phúc của Nhiếp Đề, Nhiếp Đề cực kỳ coi trọng hắn, ba ngày hai lần đưa trân thú dị tài đến đàn Huyền Vũ, còn thỉnh thoảng tuyên triệu hắn vào cung Cực Lạc thương thảo đại sự.”
Thái Chiêu ngờ vực nói: “Có thứ gọi là gần son thì đỏ gần mực thì đen, nếu Thượng Quan Đàn chủ thật sự là người tốt, chắc chắn không ở chung một chỗ với Nhiếp Đề rồi. Không phải là anh đố kị người tài, mà lo tương lai Mộ Thiếu Quân trọng dụng Thượng Quan Đàn chủ, nên nói xấu người ta trước đó nhỉ.”
Du Quan Nguyệt mặt đầy chịu nhục: “Phong cô nương có thể không tin nhân phẩm của ti chức, nhưng không thể không tin kiến thức của ti chức — xem như ti chức có thể lừa gạt cô nương, song lẽ nào ti chức có thể lừa gạt Thiếu Quân chứ?!”
Thái Chiêu:… thật sự là tổn thương không lớn, nhưng tính sỉ nhục cực mạnh nha.
Hai người tiếp tục đi sâu vào chỗ phòng giam, ai ngờ phát hiện một lối đi bí mật. Tiếp tục đi tới, vừa vặn nhìn thấy một nhóm Giáo chúng quần áo lộng lẫy bưng một chiếc rương lớn ra ngoài. Thái Chiêu và Du Quan Nguyệt xông tới ba chiêu năm thức giải quyết xong đám người này, mở rương lớn ra xem, bên trong là một gã thanh niên bị hôn mê, trong rương tràn ngập mùi hương kỳ lạ quen thuộc.
Du Quan Nguyệt vừa nhìn đã nhận ra, thất thanh: “Thượng Quan Đàn chủ?!”
Thái Chiêu cũng kinh ngạc: “Người này là Huyền Vũ Đàn chủ?!”
Giáo chúc ăn mặc sặc sỡ bị đánh ngã ra đất giãy giụa đứng dậy: “Các ngươi là ai! Giáo chủ triệu kiến Thượng Quan Hạo Nam mà các ngươi dám can đảm ngăn trở, không muốn sống phải không!”
Thái Chiêu vỗ một chưởng cách không đánh choáng gã, quay lại nói: “Ta chưa từng nghe tâm phúc nhà ai được Chủ Quân triệu kiến mà còn phải dùng Loạn Phách châm và rương lớn áp giải.”
Du Quan Nguyệt cũng mơ hồ.
Rút Loạn Phách Châm xong, Thượng Quan Hạo Nam tỉnh lại, Thái Chiêu tỉ mỉ quan sát hắn—
Người này tuổi chừng hai ba hai bốn, mặt mũi tài hoa, lưng dài vai rộng, làn da nâu nhạt, cằm hơi râu ria, dù tướng mạo không quá đẹp trai nhưng cả người toát ra một vẻ sôi sục khí khái nam tử hán nhẹ nhàng khoan khoái.
Thượng Quan Hạo Nam nhận ra Du Quan Nguyệt, hỏi rõ ràng có phải Mộ Thanh Yến đang công phạt đàn Huyền Vũ đàn ở phía trước kia xong, rất dứt khoát yêu cầu hai người đưa mình đi chiêu hàng giáo chúng. Dù hắn còn trẻ, nhưng xưa nay xung phong đi đầu, nhân ái Giáo chúng, rất có uy vọng ở đàn Huyền Vũ, sau một hồi bi thương lên án hành vi không thể chịu đựng nổi của Nhiếp Đề xong, giáo chúng xôn xao cúi đầu chịu trói, bỏ gian tà theo chính nghĩa.
Lần này đến Du Quan Nguyệt cũng ngờ vực phải chăng mình đã nghe lầm, nhìn thế nào Thượng Quan Hạo Nam cũng không giống tâm phúc của Nhiếp Đề nha.
Trong đám, chỉ mỗi Mộ Thanh Yến không hề ngạc nhiên.
Sau khi căn dặn bọn Liên Thập Tam thu dọn chiến trường sàng lọc giáo chúng tốt xấu xong, hắn một mình đưa Thượng Quan Hạo Nam vào thư phòng, Du Quan Nguyệt ngoáy tai cào má bên cạnh muốn vào theo, bị Vương Điền Phong kéo đi một phát.
Trong thư phòng, Thượng Quan Hạo Nam qua loa kể lại nguyên do mình bị nhốt trong rương.
Vốn là Nhiếp Đề nghe Mộ Thanh Yến công thành nhổ trại, từ từ tới gần đàn Huyền Vũ, thế là lệnh cho tâm phúc đi truyền lời, bảo Thượng Quan Hạo Nam nhanh chóng quay về cung Cực Lạc, tránh rơi vào trong tay Mộ Thanh Yến. Thượng Quan Hạo Nam không chịu, tâm phúc Nhiếp Đề bèn thừa dịp bất ngờ hạ Loạn Phách châm.
Mộ Thanh Yến lẳng lặng nhìn Thượng Quan Hạo Nam chăm chú, sau một hồi mới nói: “… vậy là, Nhiếp Đề còn chưa có được ngươi?”
Đang nằm bên giường nghiêng nghỉ ngơi Thái Chiêu suýt thì lảo đảo té ngã.
Thượng Quan Hạo Nam nghe xong lập tức buồn rầu, rơi hai hàng nước mắt nam tử mạnh mẽ. Hắn quỳ rạp trước bàn Mộ Thanh Yến, “Hơn một năm nay Thiếu Quân đến cùng là đi đâu thế! Thuộc hạ, thuộc hạ sắp không thể kéo dài được nữa! Nếu không phải hai năm trước Thiếu Quân làm thịt Đàn chủ tiền nhiệm đàn Huyền Vũ, để thuộc hạ mượn cơ hội chuồn khỏi cung Cực Lạc, thì thuộc hạ đã sớm rơi vào ma chưởng… huhuhu… Nhưng, vậy mà hơn một năm nay… lúc nào Họ Nhiếp cũng tìm cơ hội đến gần gũi ta, cuộc sống đúng là không thể nào trôi qua…huhuhu…”
Ở bên trong Thái Chiêu che miệng liều mạng nín cười.
Khác với loại cô nhi như Du Quan Nguyệt, Thượng Quan Hạo Nam có xuất thân rất tốt.
Lại nói năm đó Khai Dương trưởng lão và Dao Quang trưởng lão hẹn nhau đồng sinh cộng tử, lúc tình nồng đến quyết định nâng cao một bước, cho cháu trai cháu gái mình thành hôn. Tuy là chưa đợi Thượng Quan Hạo Nam ra đời hai người cùng nhau song song chết, nhưng thế lực hai phái cũng không tiêu tan ngay.
Thượng Quan Hạo Nam cứ thế từ từ lớn lên, trên có cha mẹ từ ái, dưới có người ngựa trung thành bảo vệ chủ, so với cuộc sống của Mộ Thanh Yến một người thừa kế bị ly giáo trải qua không biết thuận lợi thư thản hơn nhường nào.
Nhưng từ khi hắn dần trưởng thành, ánh mắt Nhiếp Đề nhìn hắn càng thêm dinh dính, vì ngại thế lực hai vị trưởng lão để lại Đề khó dùng biện pháp mạnh, nhưng múa may không ngừng, thường xuyên quấy rối, Thượng Quan Hạo Nam phiền muộn không thôi.
Cám ơn trời đất là, bốn năm trước Mộ Thanh Yến chính thức xuất hiện trong giáo, sau đó bèn trong tối Nhiếp Đềkhông ngừng đối nghịch với Nhiếp Đề, Đề bề bộn nhiều việc ứng phó không rảnh quan tâm chuyện khác.
Nhưng hơn một năm trước sau khi Mộ Thanh Yến rớt xuống sườn núi Tế Tiên sống chết không rõ, Thượng Quan Hạo Nam lại bắt đầu quãng thời gian nước sôi lửa bỏng.
“Ta nói sao lúc đánh vào cổng chính cung Huyền Vũ lại không thấy ngươi, ra là bị Nhiếp Đề ‘mời’ đi nửa đường.” Mộ Thanh Yến cười khẽ, “Thật sự tên Nhiếp Đề đối xử với ngươi thực không tồi, bản thân còn binh lâm thành hạ mà vẫn còn nhớ thương an nguy của ngươi, đến con ruột còn chưa quan tâm như thế.”
“Lão Nhiếp Đề này rất buồn nôn, nhớ tới ta đã mắc ói rồi.” Thượng Quan Hạo Nam đầy căm hận, “Từ khi song thân qua đời, chỉ còn các nàng Oanh Oanh Yến Yến Hồng Hồng hầu cùng ta, lão biết rất rõ bốn người chúng ta sống nương tựa lẫn nhau, thế mà còn muốn đưa tặng ba nàng cho người ta. Năm đó nếu không phải Thiếu Quân tương trợ, bốn chúng ta đã sớm âm dương cách biệt! Hừ, thù này không báo, ta thề không làm người!”
“Đây là Nhiếp Đề đố kị vào tim.” Mộ Thanh Yến nín cười thật vất vả.
Hắn biết Oanh Oanh Yến Yến Hồng Hồng là ba tỳ nữ mà cha mẹ Thượng Quan Hạo Nam tự mình chọn lựa cho con trai, chẳng những dung mạo xuất chúng, tính tình dịu hiền quan tâm, bốn người thanh mai trúc mã cùng nhau lớn lên, tình sâu ý sắc.
“Nhiếp Đề là mụ gái già vừa tiện lại vừa độc!” Thượng Quan Hạo Nam giận không kìm được.
Hắn ôm quyền nói: “Thiếu Quân, ngài có gì muốn hỏi cứ hỏi đi. Mật đạo phòng tối, phân bố nhân thủ… Ta biết gì nói nấy, tóm lại lần này nhất quyết phải diệt sạch Nhiếp Đề — ta cũng không thể lo lắng đề phòng cả đời mà sống!”
“Tốt lắm, xin Thượng Quan Đàn chủ đứng lên.” Mộ Thanh Yến một tay giả hư đỡ, “Chuyện đầu tiên ta muốn hỏi là…”
“Nhiếp Đề đến cùng có luyện thành Ngũ Độc chưởng chưa?”
…
Nội điện cung Cực Lạc, một bà trung niên mặt sẹo sải bước đi vào, ôm quyền bái lạy: “Bái kiến Giáo chủ.”
Nhiếp Đề vội tiến lên đỡ dậy: “Phượng Ca cuối cùng đã tới. Vậy phải làm sao bây giờ? Tên oắt con họ Mộ kia xem một vòng quanh cung Cực Lạc là khoảng không, sắp đánh lên đến rồi!”
Nữ tử mặt sẹo thật ra rất đẹp, có điều lệ khí tràn ngập khắp người, nhìn muốn phát khiếp.
Bà thâm trầm cười khẩy: “Giáo chủ không cần phải lo lắng, hơn một năm trước giáo chủ có thể ép thằng ranh kia chạy trối chết, xem ra hắn cũng chỉ có thế. Giờ hắn mang một đám người ô hợp để ép thoái vị, cũng chỉ là phô trương thanh thế. Đám bình bình lọ lọ ngoài kia không cần đáng tiếc, bốn toà Tổng đàn sau này cũng có thể xây lại, quan trọng là bảo vệ được vùng đất quan trọng trung tâm.”
“Cung Cực Lạc dễ thủ khó công, một đội quân lớn cơ bản không thể tiến vào, mà Giáo chủ đã ôm hết tất cả tinh nhuệ của Thiên Cung Địa Sát doanh vào trong cung, cứ thế dĩ dật đãi lao, bố trí cơ quan ngầm, nhất định có thể một mẻ hốt gọn dư nghiệt một mẻ Mộ thị!”
“Hay!” Nhiếp Đề vỗ một quyền lớn tiếng tán thưởng, “Ta có Phượng Ca ở bên như hổ thêm cánh, đã đánh tất thắng! Phượng Ca từ xa xôi chạy đến chắc mệt rồi, về nghỉ ngơi trước, chúng ta phải nghỉ ngơi dưỡng sức thật tốt.”
Hồ Phượng Ca ôm quyền lui ra.
Nhiếp Đề cho lui hai bên, xoay người đi vào một gian phòng tối, giơ một ngọn đuốc tù mù chậm rãi đi xuống thềm đá bên dưới, sau bảy rẽ tám ngoặt đến trước một tấm cửa sắt, thận trọng gõ mấy lần: “… Hôm nay có thoải mái chút nào không.”
Bên trong vang lên một giọng khàn đục: “Vẫn vậy, níu kéo lấy hơi thôi.”
“Lần này Mộ Thanh Yến tấn công rào rạt, đoán chừng mấy ngày nữa sẽ đánh lên tới.” Nhiếp Đề khẩu khí rất là cung kính.
Giọng nói đùng đục trầm thấp, “Ngươi lớn hơn nó hai mươi tuổi, chấp chưởng Thần giáo mười mấy năm, bây giờ lại bị đánh bại lùi liên tục, cũng chỉ là đồ phế vật!”
“Xin Tam ca chỉ điểm cho ta, không thì tâm huyết cả đời Đại bá muốn hủy hoại trong chốc lát!”
Người trong kia khặc khặc cười, còn khó nghe hơn cả khóc: “Ha ha ha ha hủy hoại chỉ trong chốc lát! Đã hủy từ lâu rồi! Lẽ nào Thần giáo hôm nay vẫn là Thần giáo năm ấy sao! Ta đã không muốn sống từ lâu rồi, trả Thần giáo lại cho Mộ thị cũng tốt. Tên oắt họ Mộ có thể ba lần bốn lượt ngóc đầu trở lại, chắc hẳn cũng là một nhân vật, hơn xa tên phế vật như ngươi!”
Vẻ mặt Nhiếp Đề khó xử, cắn răng: “Ta có làm Giáo chủ hay không không quan trọng, nhưng có chuyện này Tam ca nhất định phải biết.”
…
Sau khi Thượng Quan Hạo Nam rời đi, Thái Chiêu từ phòng trong đi ra, mặt đầy ngơ ngác: “Ý hắn là gì nhỉ? Nhiếp Đề chưa hề luyện thành Ngũ Độc chưởng? Vậy độc trên người huynh là từ đâu.”
Nét mặt Mộ Thanh Yến tĩnh mịch: “Đúng nhỉ, từ đâu.”
— “Với lại, đến cùng là vì sao?”