Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
A lex đến Old Bailey chỉ vài phút sau khi người gác đêm mở cổng. Sau khi trò chuyện hồi lâu với Danny ở phòng giam phía dưới, anh đi lên phòng thay đồ, mặc vào bộ quần áo lên tòa, rồi tới phòng xử án số bốn. Anh bước vào căn phòng vẫn đang trống trải, kéo ghế ngồi xuống một đầu chiếc bàn dài, đặt ba tập hồ sơ có ghi Cartwright trước mặt. Alex mở tập thứ nhất và bắt đầu xem lại bảy câu hỏi anh đã soạn ra cẩn thận đêm qua. Anh liếc đồng hồ trên tường. Mới 9h35.
9h45, Arnold Pearson và trợ lý xuất hiện, ngồi ở đầu bàn bên kia. Thấy Alex tỏ ra tập trung, họ cũng không làm gián đoạn mạch suy nghĩ của anh.
Danny Cartwright là người xuất hiện tiếp theo, cùng hai cảnh sát áp giải. Anh ngồi vào cái ghế gỗ ở giữa khu dành cho bị cáo, đợi ngài thẩm phán tới.
Chuông đổ mười giờ, cửa sau phòng xử án bật mở, và thẩm phán Sackville tiến vào vị trí của mình. Mọi người trong phòng xử đều đứng dậy và cúi đầu. Ngài thẩm phán khẽ đáp lễ, trước khi ngồi vào chiếc ghế trung tâm. “Cho mời bồi thẩm đoàn,” ông nói. Trong lúc chờ họ, ông đeo mục kỉnh, giở sổ, lấy bút máy, mở nắp và ghi: Daniel Cartwright đối chất với ông Redmayne.
Khi bồi thẩm đoàn đã yên vị, ngài thẩm phán nhìn sang luật sư biện hộ. “Ông sẵn sàng gọi nhân chứng tiếp theo chứ, ông Redmayne?” ông hỏi.
Alex đứng lên, rót ly nước, uống một ngụm, rồi liếc Danny và mỉm cười. Sau đó anh nhìn xuống dãy câu hỏi trước mặt, trước khi lật sang một trang giấy trắng. Anh mỉm cười với ngài thẩm phán và nói, “Tôi không còn nhân chứng nào khác, thưa ngài.”
Một tia lo lắng thoáng qua mặt Pearson. Ông ta vội quay sang hội ý với trợ lý, người vẫn đang tỏ ra kinh ngạc. Alex thong thả hưởng thụ khoảnh khắc này, đợi cho tiếng thì thầm ngừng hẳn. Ngài thẩm phán cũng mỉm cười với Alex, lúc đó đang nghĩ rằng thậm chí ông còn hơi nháy mắt với mình.
Khi Alex đã tận hưởng xong những giây phút thú vị này, anh nói, “Thưa ngài, phía biện hộ không còn gì để nói thêm.”
Ngài thẩm phán Sackville nhìn sang phía Pearson, lúc này trông như con thỏ đang hoảng hốt khi thấy ánh đèn pha xe tải trước mặt.
“Ông Pearson,” ngài thẩm phán nói như thể không có chuyện bất ngờ nào xảy ra, “ông có thể bắt đầu phát biểu phần kết luận với Tòa.”
Pearson từ từ đứng dậy. “Tôi tự hỏi, thưa ngài,” ông ta ấp úng, “trong những tình huống đặc biệt thế này, liệu ngài có vui lòng cho phép tôi có thêm chút thời gian để chuẩn bị phần kết luận hay không. Có thể chúng ta sẽ hoãn lại phiên xử đến chiều nay để...”
“Không, ông Pearson,” ngài thẩm phán ngắt lời. “Sẽ không có chuyện hoãn ở đây. Ông biết rõ hơn ai hết việc bị cáo có quyền lựa chọn không cung cấp bằng chứng. Bồi thẩm đoàn và các nhân viên tòa án đều đã ở đây, và chắc tôi cũng không cần nhắc ông rằng lịch làm việc của tòa đã kín cả. Mời ông tiếp tục tiến hành phần kết luận.”
Trợ lý của Pearson rút ra một tập từ dưới đáy chồng hồ sơ và đưa cho ông ta. Pearson mở ra, nhận thấy mình thỉnh thoảng đã liếc sang đối thủ trong mấy ngày trở lại đây.
Ông ta nhìn xuống trang thứ nhất, chậm chạp mở đầu, “Thưa các thành viên bồi thẩm đoàn...” Từng đoạn trôi qua, Pearson đọc vấp liên tục, đến nỗi trợ lý của ông ta cũng phải ngạc nhiên.
Alex ngôi lặng lẽ ở đầu bàn bên kia, tập trung quan sát bồi thẩm đoàn. Ngay cả người tỉnh táo nhất cũng tỏ ra chán nản, một hai người khác cố để không ngáp, bằng cách chớp chớp cặp mắt đờ đẫn của mình. Lúc Pearson giở sang trang cuối, hai giờ sau đó, đến cả Alex cũng thấy hơi gà gật.
Lúc Pearson ngồi xuống ghế, ngài thẩm phán Sackville mới đề nghị nghỉ ăn trưa. Khi bồi thẩm đoàn rời khỏi phòng xử án, Alex liếc sang Pearson, đang không thể che giấu nổi cơn giận. Ông ta quá biết rằng mình đã tặng một màn trình diễn cực kỳ nhà quê cho khán giả ở sân khấu West End trong đêm mở màn.
Alex vồ lấy một trong những tập hồ sơ dầy cộp của mình và vội vã ra khỏi phong xử án. Anh chạy dọc theo hanh lang, leo lên những bậc thang đá tới căn phòng nhỏ đã đặt trước lúc sáng ở tầng hai. Trong đó chỉ có bàn và ghế, thậm chí tường cũng trống trơn. Alex mở tập hồ sơ ra và bắt đầu xem lại phần kết luận của mình. Những câu then chốt được tập đi tập lại, cho tới khi anh tự tin rằng các điểm nổi bật nhất sẽ cắm rễ trong đầu bồi thẩm đoàn.
Alex đã bỏ ra gần như cả đêm cũng như vài tiếng lúc sáng sớm để “mài giũa” lại từng đoạn, và khi quay lại phòng xử án số bốn một tiếng rưỡi sau đó, anh cảm thấy mình đã chuẩn bị rất tốt. Alex vừa ngồi vào ghế thì quan tòa bước ra. Khi mọi thứ đã trật tự, ngài thẩm phán Sackville hỏi anh đã sẵn sàng cho phần biện hộ cuối cùng chưa.
“Tôi sẵn sàng, thưa ngài.” Alex trả lời, và rót cho mình một ly nước nữa. Anh mở tập hồ sơ, ngước lên và chiêu một ngụm.
“Thưa các thành viên bồi thẩm đoàn,” anh bắt đầu, “bây giờ các vị đã nghe....”
“Alex không mất nhiều thời gian như Pearson cho phần biện hộ của mình, nhưng sau đó, nó không còn là buổi tổng duyệt đối với anh nữa. Anh không cách nào biết các điểm quan trọng nhất của anh có ảnh hưởng thế nào với bồi thẩm đoàn, nhưng chí ít thì cũng không người nào ngủ gật, và vài người còn ghi chép lại. Một tiếng rưỡi sau, Alex ngồi xuống, cảm thấy mình đã có thể nói có nếu bố có hỏi anh đã dùng hết khả năng để bảo vệ thân chủ của mình hay chưa.
“Cảm ơn ông Redmayne,” quan tòa nói, sau đó quay sang bồi thẩm đoàn. “Tôi nghĩ hôm nay thế là đủ,” ông nói. Pearson xem đồng hồ. Mới ba giờ rưỡi. Ông ta đoán rằng quan tòa sẽ bỏ ra ít nhất một tiếng thảo luận với bồi thẩm đoàn trước khi kết thúc buổi xử án hôm nay, nhưng rõ ràng ông ta đã quá mất chủ động trước chiêu bất ngờ lúc sáng của Alex.
Bồi thẩm đoàn đã đứng dậy, cúi đầu và lặng lẽ rời khỏi phòng xử án. Alex quay sang nói vài câu với đối thủ, thì người gác tòa bước lại đưa cho Pearson một mẩu giấy. Đọc xong, Pearson đứng phắt dậy, vội vã đi ra ngoài, theo sau là trợ lý của ông ta. Alex quay lại mỉm cười với bị cáo, nhưng Danny đã bị đưa xuống phòng tạm giam ở phía dưới chân cầu thang. Alex không thể kiềm chế nghĩ đến việc ngày mai thân chủ của anh sẽ ra khỏi đây bằng cửa nào. Nhưng sau đó anh lại thắc mắc tại sao Pearson vội vàng bỏ đi như vậy.