Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Niếp Ẩn Nương âm thầm kinh ngạc, nàng hỏi:
“Có phải đi U Châu đánh Sử Triêu Nghĩa không?”
Niếp Phong đáp:
“Không sai, Sử Triêu Nghĩa này chính là con trai của Sử Tư Minh, năm ngoái hắn bị Lý Quang Bật đánh bại, tàn binh chạy về U Châu, nương nhờ Thổ vương Hề tộc, ý đồ tái khởi, bởi vậy triều đình muốn nhân cơ hội khi hắn chưa đủ lông cánh, nhất cử tiễu trừ, Lý Quang Bật đã vâng mệnh làm thảo tặc đại tướng quân, Quách lệnh công (Quách Tử Nghi) tiến cử ta làm chiêu thảo phó sử, muốn ta đi giúp sức Lý Quang Bật một tay, cánh quân này cũng do Quách lệnh công phát cho ta đó. Quách lệnh công vốn đã cao tuổi, thụ phong làm Phần Dương Vương, Hoàng thượng thể niệm lão thần, nên không sai Phần Dương Vương tự thân xuất chinh”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Nguyên lai là như vậy. Con gái cũng theo cha xuất chinh nha”.
Niếp phong cười rằng:
“Ngươi thích nhất là khua đao múa kiếm, bảo ngươi yên ổn ở nhà, ngươi cũng chẳng chịu nghe, cũng được, con theo cha xuất chinh”.
Đột nhiên y nhớ đến một việc liền hỏi:
“Con rời Trường An khi nào?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Chính là hôm nay, ăn xong bữa trưa ở nhà Tần Tương rồi mới lên đường. Tần Tương tặng chúng con mấy thất hảo mã”.
Niếp phong lấy làm lạ hỏi:
“Ta nhớ rằng hôm nay chính là ngày đầu tiên anh hùng đại hội mà Tần Tương chủ trì khai mạc, y sao lại rảnh cùng các ngươi dùng bữa?”
Niếp Ẩn Nương cười đáp:
“Anh hùng đại hội xảy ra rất nhiều chuyện hỗn loạn ngoài ý liệu, bây giờ đã tan rã rồi!”
Niếp phong lấy làm kinh hãi, lão hỏi:
“Ngươi cũng trà trộn vào trong hội trường ư? Anh hùng đại hội được Tần Tương chuẩn bị đã lâu, thế nào mà lại bị tan rã vậy?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Phụ thân, người đáp ứng không trách mắng con, con sẽ kể cho người nghe”.
Niếp Phong lắc lắc đầu than rằng:
“Ta thực là không có biện pháp, được, ta đáp ứng sẽ không trách mắng con, nói đi”.
Niếp Ẩn Nương mang chuyện trải qua, có sao kể lại như vậy không hề giấu giếm y, Niếp Phong thở dài một hơi rồi nói:
“Mấy tên Vũ Duy Dương, Đỗ Phục Uy thật sự là hồ đồ, Thiết đại hiệp năm đó hộ giá vào Tây Thục, cũng từng lập không ít công lao, không ngờ rằng hôm nay lại bị khép tội ‘phản nghịch’, ta thực sự thấy ấm ức cho ngươi. May mắn là có Trường Lạc công chúa ra mặt, bây giờ thì đã hóa họa thành phúc rồi. Chỉ mong ngươi cũng không oán hận triều đình quá”.
Thiết Ma Lặc cười rằng:
“Nếu như ta oán hận triều đình, ta sớm đã làm phản rồi, Niếp tướng quân, người yên tâm đi. Cùng lắm là ta làm khó mấy tên Tiết độ sứ loại như Điền Thừa Tự, Tiết Tung thôi, chuyện làm nguy hại nước nhà, ta sẽ không làm. Trời cũng không còn sớm, ta phải cáo từ thôi”.
Niếp Phong nói:
“Đã muộn như vậy, ngươi còn muốn đi sao?”
Thiết Ma Lặc cười đáp:
“Chúng ta quen đi tối, lại nói, ta là cường đạo đầu tử, lưu lại trong trướng của tướng quân, cho dù ngài không tị hiềm, nhưng khó đảm bảo trong quân không có thám tử của triều đình. Nên để ta đi thì hơn”.
Niếp Phong ngẫm nghĩ, cánh quân này là y mới vừa được phát, không phải quân nguyên bổn của mình, cho nên không thể không cẩn thận thêm vài phần, vì vậy nghĩ đi nghĩ lại cũng không lưu bọn Thiết Ma Lặc ở lại qua đêm nữa, y nói:
“Ta với ngươi là chỗ tâm giao, đã như vậy thì ta cũng không lưu ngươi lại nữa. Chỉ mong các ngươi bình yên vô sự. Sử điệt nữ, cháu thì sao, cháu cũng phải đi à?”
Sử Nhược Mai đáp:
“Khắc Tà và Thiết đại ca giống nhau, cũng không tiện lưu lại trong quân”.
Niếp Phong ha hả cười rằng:
“Không sai, cháu bây giờ đương nhiên là phu xướng phụ tùy! Ta thực là hồ đồ mất rồi”.
Sử Nhược Mai đỏ hồng cả mặt, chợt nàng bảo:
“Niếp bá bá, xin đừng giễu cợt, điệt nữ còn muốn thay một người nhờ bá bá giúp cho một chuyện đó”.
Niếp Phong hỏi:
“Là chuyện gì?”
Y chỉ nghĩ ‘một người’ chắc hẳn là chỉ Đoàn Khắc Tà, nào ngờ Sử Nhược Mai nói ra hoàn toàn ngoài ý đoán của y.
Sử Nhược Mai nói:
“Phương sư huynh rất muốn tòng quân, mong có được chức quan nào đó, thỉnh Niếp bá bá bồi tài, bồi tài cho!”
Phương Ích Phù ngạc nhiên vô cùng:
“Lời này, lời này...”
Bốn từ “ở đâu mà ra” y còn chưa kịp nói khỏi miệng thì Sử Nhược Mai đã cướp lời bảo rằng:
“Lời này huynh đã sớm nói với muội rồi, nhớ lại lần đầu khi huynh gặp mặt Niếp tỷ tỷ, chẳng phải huynh nói chí nguyện của huynh là ra chiến trường bảo vệ xã tắc hay sao? Niếp tỷ tỷ đã đáp ứng huynh, khi đến Trường An sẽ dẫn huynh bái kiến Niếp bá bá. Tốt rồi, tại Trường An không gặp, rốt cuộc lại gặp gỡ nơi này. Niếp bá bá không phải người ngoài, nhưng huynh ngại không dám nói, muội nói giúp cho huynh”.
Nàng quay đầu lại, rồi nói với Niếp Phong:
“Phương sư huynh thân thế thanh bạch. Huynh ấy chưa từng làm đạo tặc, bá bá có thể an tâm mà dùng huynh ấy! Võ công của huynh ấy so với điệt nữ và Ẩn Nương tỷ tỷ đều cao minh hơn đó!”
Cả phòng chỉ nghe mình nàng huyên thuyên, người khác đều không ai chen vào.
Phương Ích Phù lĩnh hội được ý tứ của Sử Nhược Mai, trong lòng tự nhủ, “Nếu ta không muốn phải ly khai sư tỷ, cũng chỉ có cách thụ chức trong quân dưới trướng cha nàng”.
Vì vậy, chỉ đành mặc nhận lời bịa đặt của Sử Nhược Mai, mặt thoáng ửng hồng, y ấp úng nói với Niếp Phong:
“Niếp tướng quân là danh gia kiếm thuật đương thời, nếu được theo hầu bên cạnh thật là sở nguyện”.
Niếp Ẩn Nương trong lòng thoáng động, nàng âm thầm nghĩ: “Không phải y luôn nói chán ghét làm quan sao? Thế nào lại đột nhiên thay chủ ý vậy? Nhược Mai, tiểu quỷ này bản lĩnh bịa chuyện cũng không kém, nói đến như vầy, thực sự khiến ta không tiện bắt bẻ được. Chỉ là tại sao muội ấy lại bịa ra như vậy? Xem ra hoàn toàn không phải hai người bọn họ có ước định trước, mà là vì Nhược Mai thấy ta muốn lưu lại theo phụ thân, muội ấy cũng liền muốn Phương sư huynh ở lại theo ta”.
Niếp Ẩn Nương vốn là người thông minh, trước đây nàng nhân vì trong lòng chỉ có Mưu Thế Kiệt, chưa từng nghĩ đến Phương Ích Phù lại thầm quyến luyến mình. Bây giờ sau khi nàng nghe hai người bọn họ nói, suy ngẫm một chút, lại nhìn thấy thần tình xấu hổ của Phương Ích Phù, tròng lòng tức thì sáng tỏ!
Niếp Phong ha hả cười bảo:
“Học thành văn võ nghệ, giúp sức đế vương gia, hiền điệt nếu đã có tâm nguyện như vậy, ta lý đâu có thể không thành toàn? Lần này ta viễn chinh, cũng muốn có một người võ nghệ cao cường làm trợ thủ, chớ nói cháu là sư đệ của con gái ta, cho dù không phải, ta cũng phải lưu cháu lại”.
Sự tình đã định đoạt, đường ai nấy đi, mấy người Thiết Ma Lặc liền lập tức cáo từ. Niếp Phong bảo:
“Ẩn Nương, con vào trong nội trướng thay đổi y phục, con là thân phận nữ hài nhi, không thể chạy loạn trong quân được. Phương hiền điệt, ta cùng cháu tiễn Thiết đại hiệp bọn họ một đoạn đường”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Bất tất phải khách khí”.
Niếp Phong cười bảo rằng:
“Ta mà không tiễn các ngươi đi, nếu như trong quân thực sự có tai mắt của triều đình, càng khiến chúng sinh nghi”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Được, vậy thì tiễn ra ngoài trướng thôi, đưa xa cũng sẽ khiến chúng nghi ngờ”.
* * * * *
Sau khi tiễn mấy người Thiết Ma Lặc đi khỏi, Phương Ích Phù răm rắp theo sau Niếp Phong tiến vào trướng soái. Niếp Phong chợt dừng bước, cười bảo:
“Phương hiền điệt, cháu không cần phải vào. Cháu đến tả doanh bái kiến Lưu tổng binh, cháu còn chưa có quân công, tạm thời làm thủ hạ của y, bổ sung làm vào chỗ tiếu quan [1] còn khuyết, chờ khi cháu lập chiến công, ta sẽ tự đề thăng cho”.
Phương Ích Phù chợt đỏ mặt, lúc này mới nhớ tới bây giờ mình đã mang thân phận của một viên quan quân nhỏ, sao có thể vô câu nệ mà tự tiện vào trướng soái tìm thiên kim của chủ soái được? Niếp Phong sợ y hổ thẹn, liền bảo:
“Cháu là sư đệ của Niếp Ẩn Nương, ta coi cháu như con cháu trong nhà, vốn không cần câu lễ. Nhưng cháu vừa mới đến, nếu ta đối đãi đặc biệt thân mật, tương lai khi ta muốn đề bạt cháu, chỉ sợ người khác sẽ nói ta có tư tâm”.
Y liền gọi một viên kỳ bài quan lại, phân phó cho hắn:
“Ngươi đưa vị Phương huynh đệ này đến gặp Lưu tổng binh, cho y bổ sung làm một viên tiếu quan vào chỗ khuyết. Phương huynh đệ lần đầu tòng quân, ngươi mang các quy củ trong quân giảng cho y một chút”.
Niếp Phong quay vào nội trướng, Ẩn Nương đã đổi lại trang phục nữ nhi, nàng đang ngồi im chống cằm, tựa như có điều suy tư. Nghe thấy tiếng bước chân của Niếp Phong, lúc này mới giật mình tỉnh lại, nàng ngẩng đầu lên chào:
“Phụ thân, người đã trở lại!”
Niếp Phong cười hỏi:
“Ẩn Nương, con có tâm sự gì đó?”
Ẩn Nương đáp:
“Con không có tâm sự gì”.
Niếp Phong nói:
“Con không có tâm sự, nhưng ta lại có tâm sự đây”.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Phụ thân có tâm sự gì, để con gái phân ưu với người”.
Niếp Phong nói:
“Con luôn tự cho mình là thông minh, con thử đoán xem”.
Niếp Ẩn Nương đoán rằng:
“Chắc là cha lo lắng Sử Triêu Nghĩa hợp binh với Hề tộc, ngoan cố kháng cự, quân ta vị tất có thể thắng được phải không?”
Niếp Phong bảo:
“Sử Triêu Nghĩ binh tàn tướng bại, có gì đáng sợ? Thổ vương Hề tộc bị hắn gạt gẫm, khi ta xuất kinh, Quách lệnh công đã đích thân viết một bức thư chiêu hàng giao cho ta mang đi, các tộc biên cương đối với Quách lệnh công đều rất kính sợ, nghe nói nhân vì có kẻ phao tin nhảm rằng Quách lệnh công đã chết, cho nên mấy bộ tộc Hồi Ngật, Thổ Bồ, Hề tộc mới rục rịch ngóc đầu dậy. Nếu ta mang thư chiêu hàng của Quách lệnh công đưa đến tay Thổ vương, chắc rằng hắn sẽ không tiếp tục trợ giúp tên tặc tử Sử Triêu Nghĩa. Chẳng phải ta dám ba hoa, một khi đã hưng sư động chúng, trong vòng ba tháng, nhất định có thể dẹp yên bọn phản tặc”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Cha nếu không phải lo lắng chuyện quân sự, thì con gái thật đoán không ra”.
Niếp Phong bảo:
“Tâm sự của cha cũng chính là tâm sự của con đó!”
Niếp Ẩn Nương hai má ửng hồng, nàng nói:
“Cha nói gì vậy, hài nhi không hiểu”.
Niếp Phong bảo:
“Ẩn Nương, năm nay con đã hai mươi tuổi rồi, con thường hay bôn tẩu giang hồ, có từng gặp được nam tử hợp ý nào không?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Cha, người không có con trai, con nguyện làm nữ thay nam, chung thân không lấy chồng, phụng thị cha”.
Niếp Phong bảo:
“Đó là lời trẻ con, chính vì ta không có con trai, nên càng cần phải có một nữ tế tốt, con sao có thể chung thân không lập gia đình được? Ta muốn con tự chọn cho mình một người thích hợp. Trong mắt con đã có người như vậy chưa?”
Niếp Ẩn Nương trong lòng tê tái, nàng ngầm kìm nước mắt, gượng cười đáp:
“Cha, người thường nói con hơn cả nam nhi, vậy thì nữ nhi phụng thị cha có gì khác đâu? Cần gì phải tìm nữ tế mà nhờ cậy. Con gái không muốn lấy chồng, cũng không gặp qua nam nhân nào tốt cả”.
Nàng không có nói chưa gặp qua nam nhân “hợp ý” mà chỉ nói chưa gặp qua nam nhân “tốt”, điều này đương nhiên là do tâm sự của mình mà nói ra. Nhưng Niếp Phong làm sao mà biết được một đoạn tao ngộ bất hạnh của con gái mình? Niếp Phong cười bảo rằng:
“Thiên hạ rộng lớn, lẽ nào không có nam nhân tốt? Đoàn Khắc Tà không phải nam nhân tốt hay sao?”
Niếp Ẩn Nương nói:
“Đó là phúc khí của Nhược Mai muội tử, chẳng lẽ cha muốn con cướp người của muội ấy sao?”
Niếp Phong bảo:
“Con lại xé ra to, là ta lấy thí dụ mà nói. Nam nhân tốt trong thiên hạ đương nhiên không chỉ có một Đoàn Khắc Tà!”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Đáng tiếc là con chưa từng gặp qua. Cha, không bàn đến chuyện này nữa nha”.
Niếp Phong đột nhiên hỏi:
“Vị Phương sư đệ của con thì sao? Y cùng tuổi với con phải không? Cha thấy y cũng rất được đó. Con đối với y có chút ý tứ nào không?”
Niếp Ẩn Nương mặt chợt ửng hồng, nàng nói:
“Phụ thân, dường như người muốn có nữ tế đến phát điên rồi? Con đã nói, con không muốn lấy chồng, nếu như cha không nuôi nữa, con sẽ tự bỏ đi”.
Niếp Phong cười bảo:
“Được, con không muốn lấy chồng, vậy thì qua hai năm nữa rồi sẽ nói, cha cũng không nỡ để con xa cha. Không lấy chồng thì không lấy, hà tất phải giở tính trẻ con ra vậy?”
Niếp Ẩn Nương cười hỏi:
“Cha, cha thực sự yêu thương con như vậy, không nỡ để con rời xa sao?”
Niếp Phong nghiêm mặt nói:
“Con chẳng những là con gái ngoan của ta, còn là trợ thủ tốt của ta. Ta đang nghĩ....”
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Lại nghĩ gì nữa vậy?”
Niếp Phong đáp:
“Bản triều hồi mới khai quốc, cũng từng có nữ tướng, ta muốn chiêu mộ cho con một đội nương tử quân, để con lĩnh suất, con có cao hứng hay không?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Đây chính là tâm nguyện nhiều năm của con. Bất quá...”
Niếp Phong hỏi:
“Bất quá cái gì?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Con vừa mới suy nghĩ, ngày mai con nên ly khai quân doanh mới tốt”.
Niếp Phong ngạc nhiên hỏi:
“Vì sao vậy? Con vốn rất thích đánh trận mà, sao lại đột nhiên muốn ly khai? Con là con gái ta, quan binh trên dưới có ai dám bất kính với con. Ở lại trong quân cũng không có điều gì bất tiện”.
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Con không phải là ý này. Thật sự nói ra, con cũng có tâm sự”.
Niếp Phong hỏi:
“A, là tâm sự gì?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Hài nhi mặc dù thích đánh trận, nhưng cũng rất nhớ mẫu thân, hài nhi rời nhà đã lâu, muốn về thăm mẫu thân. Phụ thân lần này đánh giặc, phần thắng đã nắm trong tay, hài nhi ly khai cũng có thể an tâm được. Bất quá, đội nương tử quân này, người chiêu mộ trước cho con cũng hay, hài nhi về nhà một chuyến, lập tức trở lại, có thể làm ngay nữ tướng quân được rồi”.
Niếp Phong cũng hoài niệm lão thê (bà vợ già) của mình, nghe nàng nói như vậy, trong lòng cảm động, y bảo:
“Khó có được con cái có lòng hiếu thảo như thế, vậy con trở về giúp ta báo bình an cũng tốt”.
Niếp Ẩn Nương chợt nói:
“Cha, vậy sáng sớm ngày mai con sẽ đi. Xin cha đừng nói cho Phương Ích Phù”.
Niếp Phong thoáng ngẩn người, kinh ngạc hỏi:
“Vì sao vậy?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Chẳng vì sao cả, con chỉ là không muốn để y biết con đã rời khỏi quân doanh”.
Niếp Phong cười:
“Cái này cũng không phải gì bí mật, vì sao lại muốn giấu sư đệ mình?”
Niếp Ẩn Nương khì mũi nói:
“Con không thích cho hắn biết thì sẽ không cho hắn biết, chuyện này cũng có gì đáng kinh ngạc? Cha, cha thực lắm chuyện”.
Niếp Phong cười bảo:
“Tâm sự của nữ hài nhi thật khó đoán, được rồi, cha không hỏi ngọn ngành nữa, cứ theo lời con là được”.
Nhưng trong lòng y lại nghĩ thầm, “Xem ra tiểu tử họ Phương này đối với Ẩn Nương có chút ý tứ, Ẩn Nương có thích hắn không thì thật là khó nói, nếu như nói là thích, nó muốn ly khai sao lại không cho hắn biết. Nếu như nói không thích, thì sao lạo phải trịnh trọng đề xuất như vậy, muốn ta giấu riêng hắn? Ờ, xem ra là đang ở giữa thích và không thích, tóm lại là có chuyện ngượng ngùng”.
Không nói Niếp Phong đang âm thầm đoán già đoán non, lại nói Niếp Ẩn Nương sau khi rời đi, Phương Ích Phù không hề hay biết, chỉ là liên tiếp vài ngày không gặp mặt nàng, trong lòng khó tránh khỏi buồn bực, nhưng y không dám xông vào trướng soái cầu kiến, cũng lại ngại khôm dám mở miệng hỏi.
Cứ như vậy qua mấy ngày, y thật sự không chịu được nỗi khổ sở bởi tương tư, mỗi sáng sớm trước lúc nhổ trại hành quân, hay mỗi chiều sau khi hạ trại, đều không khỏi bồi hồi loanh quoanh bên gần trướng soái, hy vọng ngẫu nhiên Niếp Ẩn Nương bước ra, khả dĩ có thể thấy mặt nàng một chút. Cứ vậy nhiều lần, khiến cho “soái tướng trung quân” (tức hộ binh của Niếp Phong) chú ý, may mắn là hắn biết Phương Ích Phù là người được chủ soái xem trọng, quan chức tuy thấp nhưng lại được chủ soái đích thân hạ lệnh ủy nhiệm, cho nên hắn cũng không có hoài nghi là Phương Ích Phù muốn hành thích Niếp Phong, bằng không sớm đã bắt y rồi. Nhưng mặc dù là vậy, rốt cuộc soái tướng trung quân cũng cảm thấy người này “hình tích khả nghi”, cho nên mang tình hình báo lại với Niếp Phong. Niếp Phong là người lịch lãm, mới nghe qua liền minh bạch ngay chuyện gì. Lập tức phân phó trung quân không cần để ý đến y, trong lòng lại thầm thấy buồn cười, “Xem ra tiểu tử này đối với con gái ta thực sự một tấm si tình”.
Rồi một ngày hạ trại sớm, trời vẫn chưa hoàng hôn, Niếp Phong giục ngựa quanh doanh trại tuần tra, quan sát tình thế núi sông chung quanh, đây là việc mà chủ tướng một đạo quân phải biết sau khi đã hạ trại.
Y đang giục ngựa chậm rãi đi, chợt thấy phía trước một trướng lều có một thất tuấn mã toàn thân trắng như tuyết, đang cất cao vó hí vang, tựa hồ không chịu trói buộc. Niếp Phong giật mình kinh ngạc, y hỏi:
“Một con ‘Chiếu Dạ Sư Tử’ thật hay! Là của ai vậy? Trong quân có một bảo mã như vậy, vậy mà ta lại hoàn toàn không hay biết”.
Trưởng quan của doanh này chính là Lưu tổng binh của tả doanh, khi Niếp Phong bước đến thì y đã bước ra tùy thị, nghe thấy chủ soái hỏi liền vội vàng đáp:
“Xin nói cho Nguyên soái biết, đây chính là chiến mã của vị Phương tiếu quan. Người mà Nguyên soái tự thân đề bạt, ngựa cưỡi cũng bất phàm! Theo như vị tướng thấy, để y làm tiếu quan cũng không khỏi ủy khuất y. Chỉ bằng vào thất chiến mã này thôi, bổ nhiệm hắn làm chức doanh quan cũng không quá đáng”.
Niếp Phong nghe y nhắc tới danh tự của Phương Ích Phù thì trong lòng thoáng động, cười rằng:
“Ta cũng biết y rất có bản sự, bất quá chưa lập chiến công, không nên thăng chức quá gấp, cứ chờ sau này hẵng nói. Ngươi kêu y lại đây”.
Phương Ích Phù nghe thấy Niếp Phong gọi thì ngạc nhiên vô cùng, Niếp Phong cười nói:
“Đây là tuấn mã Tần Tương tặng cho hiền điệt phải không?”
Phương Ích Phù đáp:
“Không sai! Mấy ngày nay, nó không được tùy ý chạy thỏa thích nên tính khí rất nóng nảy”.
Niếp Phong chợt nói:
“Hiền điệt cưỡi nó, cùng với con Xích Long câu của ta so cước lực xem”.
Phương Ích Phù đáp:
“Vị tướng không dám”.
Niếp Phong cười rằng:
“Ngươi bây giờ không có nhiệm vụ gì, hà tất phải câu nệ tôn ti chức vụ? Ngươi bồi ta đi dạo có gì mà không dám chứ? Thất mã này của ngươi là Thiên Lý Mã, không chịu ràng buộc, nếu không thả cho nó phi thì nó sẽ buồn đến sanh bệnh đó, đi nào!”
Roi ngựa quất lên không một cái, y đã phóng ngựa như bay, chạy ở phía trước. Phương Ích Phù đang muốn tìm cơ hội để hướng Niếp Phong mà thăm hỏi tin tức, lập tức cũng không khách khí nữa, y nhảy lên lưng Chiếu Dạ Sư Tử, liền đuổi theo.
Con Xích Long câu này của Niếp Phong cũng là chiến mã ngàn con chọn một, phóng hết cước lực, ngày đi ngàn dặm, vượt núi băng sông tựa như đất bằng. Nhưng chưa hết một nén hương, chung vu con Chiếu Dạ Sư Tử của Phương Ích Phù đã đuổi kịp, Niếp Phong khen:
“Thực là thất hảo mã! Ta thật phục Tần Tương, y tùy tiện lấy trong chuồng ngựa ra một con tặng cho người, vậy mà còn vượt hơn cả Xích Long câu của ta”.
Phương Ích Phù nói:
“Niếp tướng quân, nếu như thích...”
Niếp Phong cắt ngang lời y, cười rằng:
“Xích Long câu ta đã cưỡi quen rồi, nó hiểu được tính cách của ta, ta cũng hiểu tính nết nó, trên chiến trường quan trọng nhất là có được một chiến mã hiểu được tính cách của mình. Chiến mã trải qua huấn luyện lâu, phi nhanh mặc dù cũng rất quan trọng, nhưng thực tế vẫn là thứ yếu. Ngươi giữ lấy con Chiếu Dạ Sư Tử mà dùng, ta không muốn đổi cùng người”.
Lúc này bọn họ đã ly khai doanh trại đến mười dặm có dư, trên thảo nguyên mênh mông chỉ có đúng hai người bọn họ, Niếp Phong bảo:
“Chúng ta có thể thong thả đi một chút. Nghe nói hiền điệt là tục gia đệ tử của Diệu Tuệ thần ni, lại từng bái Ma Kính lão nhân làm sư phụ, kiếm pháp kiêm sở trường cả hai nhà, sư tỷ ngươi đối với ngươi cũng rất bội phục. Ta sớm muốn tìm ngươi để học hỏi, đáng tiếc chức vụ tại thân, không có lúc nào rảnh ra được”.
Phương Ích Phù đáp:
“Niếp tướng quân là danh gia kiếm thuật, vị chức sao dám múa búa trước cửa Lỗ Ban?”
Niếp Phong cười bảo:
“Nếu luận về binh pháp, ngươi có thể không cần khách khí với ta, chẳng giấu gì ngươi, ta còn thường xuyên thỉnh giáo nữ nhi của mình”.
Nói đoạn rồi y lại ha hả cười lớn. Phương Ích Phù thấy Niếp Phong là người dễ gần, không có chút nào kiêu căng, thì dần dần cũng không còn câu nệ, đầu tiên là Niếp Phong hỏi một câu, y đáp lại một câu, sau đó đàm luận cao hứng, cũng tự xướng ngôn không úy kỵ. Niếp Phong và y đàm luận ảo diệu của các kiếm thuật thượng thừa, Niếp Phong là một hành gia, chỉ cần nghe y đàm luận, không cần tỷ thí cũng đã biết kiếm thuật của y xác thực là còn cao minh hơn con gái mình.
Niếp Phong nói:
“Ta xuất thân là đứa bé thôn dã, rồi gặp nhân duyên, làm thành cái chức tướng quân này. Kỳ thật khi còn niên thiếu, ta lại rất mong muốn được làm du hiệp. Con gái ta người khác thấy không giống ta, chỉ thích phiêu lãng giang hồ, thực sự tâm tính của nó cũng giống như ta thuở nhỏ. Nói ra ta lại muốn hỏi ngươi, ngươi và nó cũng đã từng thiên lý đồng hành trên giang hồ, vậy có chuyện gì kinh hiểm hay thú vị có thể kể lại được không?”
Phương Ích Phù chỉ đành kể lại,mấy chuyện trải qua, như môn hạ đệ tử Linh Sơn phái gây khó dễ cho bọn họ, trong khách điếm tương ngộ với Đoàn Khắc Tà, hiểu lầm lẫn nhau rồi dẫn đến động thủ. Nhưng đối với chuyện giữa Mưu Thế Kiệt và Niếp Ẩn Nương thì y giấu đi không đề cấp tới.
Niếp Phong ngầm tư lự: “Nói như vậy, hắn cùng Ẩn Nương giao tình không tầm thường, còn từng cùng chung hoạn nạn! Bọn chúng lại là đồng môn, nếu như có thể kết thành một đôi, thực sự là đã thân lại càng thân hơn. Chỉ không biết tâm tư Ẩn Nương thế nào, đã đi chung với nhau nhiều ngày như vậy, bây giờ chia tay, cũng không chịu nói lời tạm biệt với y, còn muốn giấu y?”
Phương Ích Phù thấy Niếp Phong cúi đầu trầm ngâm như có điều suy tư, chỉ nghĩ rằng y có chỗ nghi ngờ, nghi mình cũng với Niếp Ẩn Nương thiên lý đồng hành đã có hành vi vượt ngoài phép tắc. Nhưng loại tư tình nhi nữ như này, Niếp Phong không có hỏi rõ, y cũng ngại không dám giải thích, bất giác nóng ran cả mặt.
Niếp Phong chợt ngẩng đầu lên, nhìn y một cái rồi mỉm cười nói:
“Phương hiền điệt, nghe nói mấy ngày nay ngươi thường loanh quanh bên gần doanh trướng của ta, hẳn là có chuyện gì muốn gặp ta sao?”
Phương Ích Phù không ngờ rằng y cũng biết, tức thì mặt hồng quá tai, lúng túng nói:
“Cái này, cái này...”
Niếp Phong cười bảo:
“Không phải kiếm ta, thì chắc là muốn kiếm sư tỷ ngươi phải không?”
Phượng Ích Phù trên mặt càng đỏ, y đánh bạo hỏi:
“Nhiều ngày nay đều không thấy sư tỷ ra ngoài, không biết, không biết tỷ ấy trong người có gì không ổn không? Tiểu điệt, tiểu điệt muốn đến thăm bệnh, lại sợ mạo muội”.
Niếp Phong cười bảo:
“Ẩn Nương thực ra không có bệnh gì, chỉ là nó sớm đã không còn trong quân doanh”.
Phương Ích Phù giật mình hốt hoảng, y hỏi lại:
“Sư tỷ không còn trong quân doanh sao?”
Niếp Phong đáp:
“Không sai, ngày thứ hai khi các ngươi đến nơi thì nó liền hồi gia thăm người thân rồi”.
Phương Ích Phù sững sờ phát ngốc, sắc mặt màu hồng đã pha chút tái xanh, y thẫn thờ nói:
“Niếp sư tỷ là hồi gia thăm người thân sao?”
Thần tình của y tựa hồ như cảm thấy chuyện rất bất ngờ, Niếp Phong cũng rất ngạc nhiên hỏi:
“Ngươi tưởng rằng nó còn đi đâu à?”
Phương Ích Phù đã nghĩ đến một chuyện có thể phát sinh, đang không biết hồi đáp như thế nào, Niếp Phong lại chợt nói:
“Uy, ba thất mã trước mặt đang phóng rất nhanh, mặc dù không sánh được với Chiếu Dạ Sư Tử của ngươi, nhưng cũng không kém hơn Xich Long Câu của ta. Nhóm người này lại thực cổ quái!”
Phương Ích Phù định thần đưa mắt nhìn về phía trước, ba thất mã càng lúc càng đến gần, khả dĩ có thể nhìn thấy ngồi trên lưng ngựa đều là Hồ tăng. Phương Ích Phù giật mình kinh hãi, nói:
“Xem qua trang phục của ba người này thì chính là môn hạ Linh Sơn phái. A, đúng rồi, tên hồng y phiên tăng đi đầu chính là nhị đệ tử của Linh Thứu thượng nhân”.
Niếp Phong hỏi:
“Là bọn Linh Sơn phái mà ngươi vừa mới nói, đã từng với các ngươi xung đột đó à?”
Phương Ích Phù đáp:
“Không sai. Đại sư huynh Thanh Minh Tử của Linh Sơn phái từng nhận lễ vật của Sử Triêu Nghĩa, mấy tên này, chỉ sợ chúng là gian tế”.
Nói chưa dứt lời, ba thất khoái mã kia đã phóng đến, hồng y phiên tăng nhìn thấy Phương Ích Phù thì cũng lấy làm kinh hãi, hắn quát mạnh:
“Hừ, tiểu tử nhà ngươi nguyên lai lại ở đây, yêu phụ Tân Chỉ Cô đâu?”
Niếp Phong quát mắng:
“Các ngươi là đám yêu nhân nào?”
Hồng y phiên tăng đánh mắt ước lượng Niếp Phong, thấy y thần thái uy nghiêm, lại phục sức tướng quân thì liền hỏi:
“Ngươi có phải là Niếp Phong không?”
Niếp Phong quát:
“Vô lễ, còn không xuống ngựa cho ta!”
Phiên tăng kia phá lên cười lớn:
“Ha ha, quả nhiên là Niếp đại tướng quân, ngươi ở trong đại quân, ta chẳng làm gì được. Nhưng lúc này, ta thực sự lại muốn vô lễ với ngươi đây!”
Hắn vung tay nói:
“Các ngươi giữ chân tên tiểu tử kia, ta đến bắt con dê mập này!”
Phiên tăng kia tự thị công lực cao thâm, tưởng rằng Niếp Phong tuy là danh tướng, bất quá chỉ sở trường bày binh bố trân, tối đa là thành thục cưỡi ngựa bắn tên, như vậy còn không phải sẽ tóm là được ngay sao? Nào ngờ Niếp Phong không phải tướng quân bình thường, về kiếm pháp cũng là người có tạo nghệ, y nghe phiên tăng kia nói năng càn rỡ, thì thốt nhiên giận dữ, liền giật cương ngựa, không chờ ngựa của đối phương phóng đến, Xích Long câu đã chồm lên mạnh mẽ nhào đến phiên tăng kia.
Phiên tăng kia cởi áo cà sa, nghênh phong rung lên, hóa thành một đám mây hồng hướng Niếp Phong chụp xuống, hắn ha hả cười nói:
“Niếp đại tướng quân, ngươi tự đâm đầu vào lưới, đừng trách ta tiện tay dắt dê đó!”
Tiếng cười còn chưa dứt, đã nghe thấy một tiếng “xoạt”, kiếm quang của Niếp Phong lướt qua, đâm thủng một lỗ trên áo cà sa của phiên tăng. Phiên tăng trở tay rung lên, áo cà sa nhanh xoay tròn, đánh bạt kiếm của Niếp Phong ra, cấp tốc hoàn lại một chưởng.
Giao thủ hiệp thứ nhất, cà sa của phiên tăng bị Niếp Phong đâm rách, xem như thua thiệt không nhiều cũng không ít, chỉ là “binh khí” trong tay hắn bất quá là một chiếc áo cà sa rách rưới, vậy mà sau khi nhận chiêu còn có thể đánh bạt bảo kiếm của Niếp Phong. Niếp Phong cũng không khỏi giật mình kinh hãi. Lúc này phiên tăng kia đang đánh xuống một chưởng, Niếp Phong ở vị trí cuối gió, mơ hồ ngửi thấy một cỗ mùi nhè nhẹ.
Niếp Phong biết đây là công phu độc chưởng, liền vội vàng giục ngựa chiếm lấy vị trí đầu gió. Xích Long câu của y là chiến mã đã trải qua huấn luyện lâu năm, Niếp Phong có thể chỉ huy như ý, tiến thối tùy tâm, liền lập tức chiếm lấy phương vị thuận lợi, phóng liên tiếp liên hoàn tam kiếm.
Phiên tăng kia rơi vào vị trí cuối gió, nếu như phóng độc, chỉ sợ độc không đến được đối phương mà bị gió thổi ngược lại hại chính thân mình. Nên biết giao phong trên lưng ngựa, không giống với cận thân đánh giết trên đất bằng, lúc đó hướng gió không có ảnh hưởng lớn, nhưng bây giờ đang thúc ngựa giao phong trên thảo nguyên trống trải, ngựa nhảy một bước là mấy trượng, nếu không giành được vị trí đầu gió, thì cho dù có độc dược ám khí cũng không thể thi triển được.
Trong nháy mắt, song phương kẻ đến người qua đã đấu được mấy hiệp, Niếp Phong cũng có chút cố kỵ độc chưởng của hắn, hễ kiếm đâm không trúng hay bị hắn chặn lại là liền giục ngựa nhảy ra, cho nên trừ chiêu đầu tiên phiên tăng bị thua thiệt một chút, kỳ dư mấy chục chiêu đều là kẻ đến kẻ qua không thấy thắng thua.
Phiên tăng kia đưa mắt nhìn qua, thấy hai tên sư đệ đang bị Phương Ích Phù một người một ngựa đánh cho quay mòng mòng, xem ra đã vào thế không địch lại được. Phiên tăng trong lòng thầm kinh hãi, “Nếu như ta không bắt được Niếp Phong trước, để cho tiểu tử này đắc thủ rồi đánh tới thì ta chắc chắn sẽ bại”. Bỗng dưng trong lòng hắn thoáng động: “Xạ nhân tiên xạ mã, sao ta lại quên mất?”
Chủ ý đã định, hắn liền phóng Mai Hoa châm ngược gió bay ra. Mai Hoa châm rất nhỏ, ngược gió phóng ra thì càng khó đi xa được, thế nhưng Mai Hoa châm của phiên tăng này lại thập phần cổ quái, ở giữa châm là rỗng, có chứa độc phấn vị chua cay. Phiên tăng kia phóng Mai Hoa châm ra, Xích Long câu của Niếp Phong nhảy ra ngoài mấy trượng, người và ngựa đều không bị trúng mũi nào, thế nhưng mùi chua cay của độc phấn thì Xích Long câu không quen, đột nhiên hắt hơi một cái rồi lồng lên, hất Niếp Phong xuống yên ngựa. Phiên tăng kia tức tốc quay đầu ngựa, xông đến vung cà sa lên, muốn lập tức bắt sống Niếp Phong.
Tựa hồ cùng một lúc, bên này, Mai Hoa châm của hồng y phiên tăng vừa triệt xuất thì bên kia hai tên sư đệ của hắn đã mang tai. Phương Ích Phù mắt nhìn bốn phía, tai nghe tám phương, vừa thấy Niếp Phong ngộ hiểm, lập tức sử ra tuyệt chiêu sát thủ, một kiếm chém một tên phiên tăng ngã ngựa, tên phiên tăng còn lại vỗ ngựa chạy, nhưng hắn sao nhanh bằng khoái mã của Phương Ích Phù. Chỉ nháy mắt là đã đuổi kịp, Phương Ích Phù vung trảo chụp lấy lưng hắn, bắt sống hắn ngay trên mình ngựa.
Bên kia Niếp Phong đã bị hất khỏi yên ngựa, người đang lơ lửng trên không còn chưa rơi xuống, phiên tăng đã vung cà sa lên hóa thành một đám mây hồng chụp xuống đầu y. Đúng lúc Phương Ích Phù lao đến, người còn chưa tới nơi đã hét vang một tiếng ném tên tù binh trong tay qua. Cà sa của hồng y phiên tăng không chụp được Niếp Phong, lại chụp trúng sư đệ mình, tựa như chiếc lưới bắt được con cá lớn, người liền mang theo lưới, nặng nề quật xuống đất.
Chiếu Dạ Sư Tử đến nhanh vô cùng, phiên tăng kia đang thất kinh, Phương Ích Phù đã chém đến một kiếm. Võ công của hồng y phiên tăng vốn không thua kém Phương Ích Phù, nhưng lúc này hắn chưa bắt được Niếp Phong mà hai tên sư đệ đã bị kết liễu, lòng dạ đâu còn ham chiến nữa? Hắn tung mình theo thế “Đăng Lý Tàng Thân” tránh khỏi một kiếm của Phương Ích Phù. Nói thì chậm, nhưng diễn biến rất nhanh, kiếm thứ hai của Phương Ích Phù đã lại đâm tới nhanh như tia chớp. Kiếm pháp của Phương Ích Phù là chân truyền của hai đại danh gia, một khi để y chiếm mất tiên cơ thì hồng y phiên tăng dù có lòng ham chiến cũng vô lực hoàn chiêu.
Kỵ thuật của của phiên tăng này cực hay, trong lúc hiểm cấp, hắn dùng thế “Đảo Quyển Châu Liêm”, chỉ bằng một mũi chân móc trên yên, thân hình đã trốn dưới bụng ngựa. Thế nhưng mặc dù hắn tránh thoát kiếm thứ hai của Phương Ích Phù, song ngựa cưỡi của hắn lại không tránh khỏi kiếm thứ ba, kiếm này vừa vặn đâm trúng mông ngựa. Ngựa của hồng y phiên tăng là loại danh mã chủng Khang Cư, vừa mới bị thương, thì nhờ đau mà phóng gấp, tốc độ không thua kém Chiếu Dạ Sư Tử của Phương Ích Phù.
Mấy chiêu nhanh như chớp điện, Phương Ích Phù đánh hồng y phiên tăng bỏ chạy, thì Niếp Phong mới hạ xuống mặt đất, chân vừa mới trụ vững. Phương Ích Phù lo lắng cho Niếp Phong nên không truy cản, liền vội vàng nhảy xuống ngựa hỏi:
“Niếp tướng quân, ngài có làm sao không?”
Niếp Phong đáp:
“Đa tạ ngươi đã đến kịp thời, ta may mắn chưa bị thiệt hại gì. Chỉ là con Xích Long câu không biết tại sao lại như vậy”.
Trong khi nói chuyện thì Xích Long câu cũng đã chạy lại, dùng bờm trên cổ cọ cọ vào Niếp Phong hí lên mấy tiếng dài, tựa như là đã biết chủ nhân bình an vô sự nên tỏ vẻ vui mừng. Niếp Phong cẩn thận kiểm tra, thấy con Xích Long câu cũng bình an vô sự, lúc này mới yên tâm. Nguyên lai con Xích Long câu lần này chỉ là ngửi thấy mùi độc phấn chua cay chứ hoàn toàn không bị dính phải độc phấn.
Phương Ích Phù nói:
“Hồng y phiên tăng này là nhân vật trọng yếu thứ ba trong Linh Sơn phái, đáng tiếc đã để hắn chạy thoát”.
Niếp Phong bỗng nhiên tỉnh ra, y bảo:
“Mau xem xem hai tên phiên tăng kia, xem bọn chúng đã chết hay chưa?”
Một tên trong đó bị Phương Ích Phù nhất kiếm xuyên thủng tiểu phúc, mặc dù còn chưa tuyệt khí nhưng thoi thóp sắp chết. Phương Ích Phù không đành lòng nhìn tình trạng của hắn, liền điểm vào tử huyệt hắn. Một tên khác thì bị cà sa chụp trúng, Phương Ích Phù mở áo cà sa ra rồi nói:
“Hoàn hảo, tên này chỉ có bị thương”.
Niếp Phong chộp lấy phiên tăng đó, dứ bảo kiếm ra quát:
“Các ngươi đến đây làm gì? Vì sao lại muốn hại ta, nhanh nói thật tình, bằng không ta một kiếm chém làm hai đoạn”.
Phiên tăng kia van xin:
“Tướng quân tha mạng, chuyện này không phải ý tôi, tôi bị đại sư huynh sai khiến, thân bất do kỷ, không làm không được”.
Niếp Phong hỏi:
“Đại sư huynh ngươi là tên Thanh Minh Tử gì đó phải không?”
Phiên tăng đáp:
“Không sai, Đại sư huynh nhận lễ của Sử Triêu Anh và Thổ vương Hề tộc, sai cả hai đời môn nhân của Linh Sơn phái đều đến U Châu hết”.
Niếp Phong lại hỏi:
“Sư huynh ngươi sai khiến ngươi đến làm gì?”
Phiên tăng đáp:
“Không dám giấu tướng quân, là đến để do thám quân tình”.
Nguyên lai lần trước Thanh Minh Tử phái mười ba tên sư đệ là vì giúp Sử Triêu Nghĩa bắt em gái hắn. Không ngờ đến lại đụng phải sư phụ của Sử Triêu Anh là Tân Chỉ Cô. Mười ba môn hạ của Linh Sơn phái chỉ trừ có đệ tử thứ hai của Linh Thứu thượng nhân tức hồng y phiên tăng ra, kỳ dư mười hai tên còn lại đều bỏ mạng dưới tay Tân Chỉ Cô. Lần đó ngay cả Linh Thứu thượng nhân cũng đều bị kích nộ, cho nên đáp ứng cầu xin của đại đệ tử Thanh Minh Tử, cho phép hắn kéo theo cả hai đời môn nhân, toàn bộ hạ sơn, thứ nhất là giúp Sử Triêu Nghĩa, thứ hai là chuẩn bị cùng Tân Chỉ Cô một trận sống mái. Thanh Minh Tử dự đoán Tân Chỉ Cô vì duyên cớ của đồ đệ, nhất định sẽ đến U Châu, bọn chúng đã chuẩn bị một địa sát trận hiểm độc để đối phó với Tân Chỉ Cô. Nếu như vẫn không thể đối địch được, Linh Thứu thượng nhân tối hậu sẽ ra mặt.
Thanh Minh Tử dã tâm bừng bừng, chẳng những chỉ bởi báo cừu, mà còn muốn làm quốc sư của Sử Triêu Nghĩa, một ngày nếu có thể giúp Sử Triêu Nghĩa dựng thành nghiệp đế, Linh Sơn phái của hắn có thể độc bá võ lâm, cho nên hắn đáp ứng thỉnh cầu của Sử Triêu Nghĩa, phái ba sư đệ đến do thám quân tình.
Những điều Niếp Phong cần biết, tên phiên tăng kia đều nhất nhất cung khai. Niếp Phong cười lạnh nói:
“Tên tặc tử này trợ giúp yên nhân, lại vọng tưởng muốn làm vương sư sao? Được, nhà ngươi đã khai thiệt tình, ta khả dĩ tha cho ngươi một mạng, nhưng không thể tha ngay lập tức. Chờ sau khi ta phá xong U Châu, sẽ thả ngươi ra”.
Phiên tăng kia mừng hơn cả ước, chỉ cần bảo toàn được tính mạng, đương nhiên là mặc cho xử trí.
Phương Ích Phù trong lòng chợt động, liền hỏi:
“Em gái của Sử Triêu Nghĩa đã trở lại U Châu chưa?”
Phiên tăng kia đáp:
“Không nghe thấy nói đến”.
Niếp Phong có điểm kỳ quái, y ngẫm nghĩ: “Phương Ích Phù vì sao lại quan tâm đến em gái Sử Triêu Nghĩa?”
Y không biết rằng Phương Ích Phù không phải quan tâm đến Sử Triêu Anh mà là quan tâm đến Mưu Thế Kiệt, cặn kẽ mà nói thì cũng không phải Mưu Thế Kiệt mà là Niếp Ẩn Nương. Nhưng quan hệ giữa ba người này nhập nhằng phức tạp, Niếp Phong làm sao mà biết được? Niếp Phong đang muốn áp giải phiên tăng kia trở về, Phương Ích Phù chợt nói:
“Tướng quân, vị tướng mạo muội, muốn thỉnh tướng lệnh”.
Niếp Phong hỏi:
“Nhà ngươi muốn thỉnh tướng lệnh gì?”
Phương Ích Phù đáp:
“Sử tặc phái người đến do thám quân tình của chúng ta, chúng ta sao lại không thể phái người đến do thám quân tình bọn chúng? Vị tướng đang không có việc gì, muốn được thỉnh tướng lệnh, đến U Châu trước”.
Niếp Phong ngẫm nghĩ, rồi bảo:
“Đạo dụng binh, vốn phải biết người biết ta, ngươi nói muốn đến do thám quân tình đối phương, điều này ta cũng từng sớm nghĩ quan. Bất quá, nơi đây cách xa U Châu đến ngàn dặm, nhân mã của chúng ta lại đông, một ngày đi không quá năm mươi dặm, muốn đến được U Châu tối thiểu cũng phải mất nửa tháng, ta chuẩn bị sau tám mười ngày nữa mới phái thám tử đi”.
Phương Ích Phù nói:
“Ngựa của vị tướng nhanh, cách xa ngàn dặm, cũng không quá bốn năm ngày là trở lại, sớm biết được tình hình quân địch, không phải càng tốt sao?”
Niếp Phong bảo:
“Không sai, lúc đầu ta không biết ngươi có thất chiến mã này, bây giờ đã biết, đương nhiên ta cũng muốn thay đổi chủ ý. Ngươi võ nghệ cao cường, thêm có thần câu, đi trước thám thính quân tình, thật rất thích hợp. Ta chỉ băn khoăn, ngươi là tân binh, sợ rằng lịch duyệt quá ít...”
Phương Ích Phù vội vàng nói:
“Lịch duyệt, lịch duyệt, đây chính là rèn luyện lịch duyệt mà ra. Tướng quân nếu phái tôi đi, tôi sẽ tự cẩn thận hơn gấp bội”.
Niếp Phong cười rằng:
“Chẳng có được ngươi nhiệt tâm như thế, vậy thì ngày mai ngươi hãy lên đường đi”.
Sau lưng có tiếng lạc ngựa vang, nguyên lai là tả doanh tổng binh thấy Niếp Phong chậm trễ chưa về, sợ rằng có gì ngoài ý muốn, cho nên mới dẫn theo mấy thân binh tìm đến.
Phương Ích Phù nói:
“Lưu tổng binh bọn họ đã đến, không cần tôi phải áp giải tên phiên tăng này về, tôi nghĩ bây giờ sẽ lên đường”.
Niếp Phong ngạc nhiên hỏi:
“Hà tất phải vội vàng như vậy?”
Phương Ích Phù đáp:
“Binh quý thần tốc, bây giờ mặt trời còn chưa xuống núi, trước khi trời tối, con Chiếu Dạ Sư Tử của tôi cũng có thể đi được một trăm dặm”.
Niếp Phong nói:
“Được rồi, vậy ngươi đi sớm về sớm. Nhớ kỹ, gan phải lớn, bụng phải cẩn thận, nhất thiết phải coi chừng bản thân”.
Phương Ích Phù lĩnh tướng lệnh, phóng ngựa như bay, nửa khắc sau chỉ thấy thảo nguyên mênh mông, ngoại trừ y một người một ngựa đều không có bất kỳ bóng người nào. Phương Ích Phù phóng mắt ngắm thảo nguyên, dõi trông miền tái ngoại [2], liên miên bất tuyệt, chợt thở dài một hơi cảm thán, tự nói với mình:
“Nàng đi trước ta mấy ngày, chỉ sợ lúc này đã đến U Châu rồi. Nhưng nếu như trong lòng nàng chỉ có một Mưu Thế Kiệt, cho dù ta đuổi kịp nàng, thì có thể như thế nào đây?”
Nguyên lai Phương Ích Phù nóng lòng đến U Châu,bất quá thám thính quân tình chỉ là cớ, việc chính là y không an tâm, muốn truy tung Niếp Ẩn Nương. Y mới nghe thấy Niếp Ẩn Nương không ở trong quân, liền nghi nàng đến U Châu để gặp riêng Mưu Thế Kiệt. Tư niệm như vậy, bất giác y buồn bực, nhưng lại lập tức tự nhủ: “Bất kể trong lòng nàng có hay không có ta, ta nhất định không thể để cho nàng mù quáng thần tượng Mưu Thế Kiệt”.
Nghi đoán của Phương Ích Phù quả nhiên là sự thật, hôm đó Niếp Ẩn Nương cũng lấy cớ là về nhà thăm mẫu thân, thật sự là muốn lén đến U Châu gặp mặt Mưu Thế Kiệt. Nàng muốn gặp Mưu Thế Kiệt cũng không phải hoàn toàn bởi vì dư tình chưa dứt, mà một nửa nguyên nhân chính là không muốn Mưu Thế Kiệt đi vào con đường sai lầm.
Đúng là:
Một tấm lao tâm người chẳng hiểu
Tình thâm đành mặc nước về đông.
--------------------------------------------------------------------------------
[1] Tiếu quan: chức quan thấp.
[2] Tái ngoại: ngoài Trường Thành phía Bắc.