Saved Font
  1. mTruyen.net
  2. Thiên Tài Tướng Sư
  3. Chương 91 : Chương 91
Trước /917 Sau

Thiên Tài Tướng Sư

Chương 91 : Chương 91

Màu Nền
Màu Chữ
Font Chữ
Cỡ Chữ
Style Combo

Link tham khảo:

50 miếng cực kỳ hiếm thấy trân quý tiền cổ tệ. Từ trước tựu là tuyền giới cất chứa người lần thụ tôn sùng chí thượng trân phẩm, hắn cất chứa giá trị, thưởng thức giá trị và nghiên cứu giá trị là không thể số lượng có hạn đấy, cũng là cực kỳ trọng yếu đấy.

Hiện căn cứ nhiều năm bắt được lịch đại cổ tuyền 50 tên trân tư liệu, biên tập sửa sang lại như sau, dùng cung cấp tàng người tham khảo.

1 kiều đủ nửa 釿 bố: thời kỳ chiến quốc tiền đúc. Hệ theo không thủ bố diễn biến mà đến, bởi vì tiền văn nhiều đúc có tiền đơn vị "釿" chữ mà được gọi là. Sinh ra tại Chiến quốc lúc đầu, chủ yếu lưu thông tại Ngụy Quốc khu. Cơ bản hình dạng và cấu tạo cầm đầu bộ thật thà, tròn vai ( hoặc bằng vai ), tròn đũng quần, phương đủ. Tiền văn kỷ đấy, kỷ giá trị, giống như:bình thường phân hai 釿, một 釿 cùng nửa 釿 tam đẳng. Trừ lần đó ra, lúc ấy Sở quốc khu đã từng đúc đi trả tiền văn theo thứ tự là "Thù bố đem làm 釿" cùng "Bốn bố đem làm 釿" nhảy vọt 釿 bố.

2 ba lỗ bố: tròn đủ bố một trong chủng (trồng). Bởi vì thủ bộ cùng hai chân bộ có tất cả một ít lỗ mà được gọi là. Loại này bố tệ phát hiện cực nhỏ, chứng kiến mặt văn có hơn hai mươi chủng (trồng), lưng (vác) văn kỷ giá trị, phân "Lưỡng" cùng "Mười hai Chu" các loại:đợi.

3 bác núi đao: đủ minh đao một trong chủng (trồng). Yến chiêu Vương hai mươi tám năm đến đầy đủ tương Vương Ngũ năm ( trước 284- trước 279), Yến quốc công chiếm đủ mảng lớn lãnh thổ lúc đúc. Đời nhà Thanh Gia Khánh trong năm Sơn Đông tỉnh bác núi hương dụ thôn khai quật, chữ đặc thù, tập xưng "Bác núi đao", truyền thế cực nhỏ. Mặt sau đúc có ba chữ hoặc bốn chữ, giống như:bình thường mở đầu hai chữ đều là "Cử dã" . 1979 năm, Sơn Đông cử huyện thành cổ di chỉ từng khai quật có loại này đao tệ tiền phạm.

4 Tấn Dương chủy: tức tròn thủ đao, thời kỳ chiến quốc tiền đúc, lại xưng thẳng đao, Triệu đao. Hình thể khinh bạc, tiền văn có "Cam Đan hóa", "Cam Đan", "Người da trắng hóa", "Người da trắng", "Bạch hóa", "Vương Hóa", "Thành" các loại:đợi hơn mười chủng (trồng), nhiều ra đến nay Hà Bắc, Sơn Tây, nội Mông Cổ to như vậy."Thành bạch" lại thích làm "Thành tơ lụa", Hà Bắc linh thọ Chiến quốc Trung Sơn cố đô thành chỉ từng khai quật loại này đao tệ tiền phạm, có thể chứng nhận hắn đúc địa phương.

5 đủ sáu chữ đao: đủ đao, thời kỳ chiến quốc Tề quốc đúc làm được "Đủ phản bang lớn lên hóa", "Đủ đại hóa", "Đủ to lớn hóa", "Tức Mặc to lớn hóa", "Tức Mặc đại hóa", "An Dương to lớn hóa" các loại:đợi đao tệ gọi chung là. Trừ lần đó ra, giống như:bình thường đem "Cử bang" các loại:đợi tàn đao cũng đưa về đủ đao phạm vi.

6 Đông Chu, Tây Chu ( viên tiền ): lại xưng "Hoàn tiền", Chiến quốc lúc tiền đúc. Hình dạng và cấu tạo vi hình tròn lỗ tròn, nguyên ở ngọc bích hoặc tơ lụa luân(phiên), chủ yếu lưu thông tại ba tấn khu.

7 chung đồn vàng ròng ( viên tiền ): lại xưng "Hoàn tiền", Chiến quốc lúc tiền đúc. Hình dạng và cấu tạo vi hình tròn lỗ tròn, nguyên ở ngọc bích hoặc tơ lụa luân(phiên), chủ yếu lưu thông tại ba tấn khu.

8 cường tráng tuyền bốn mươi: mới mãng tiền, thủy thành lập đất nước hai năm (10) đúc."Sáu tuyền" chỉ quy tắc thẳng một, sao tuyền mười, ấu tuyền hai mươi, trong tuyền 30, cường tráng tuyền bốn mươi, đại tuyền 50, "Mười bố" chỉ vải nhỏ 100, sao bố hai trăm, ấu bố 300, tự bố 400, chênh lệch bố 500, trong bố 600, cường tráng bố bảy trăm, đệ bố 800, lần bố chín trăm, đại bố hoàng ngàn. Trong đó quy tắc thẳng một tại thủy thành lập đất nước nguyên niên (9) đã đúc, đại tuyền 50 thì tại Tây Hán cư nhiếp hai năm (7) đã đúc, thủy thành lập đất nước nguyên niên (9) lại đúc.

9 quốc bảo kim quỹ thẳng vạn: mới mãng lúc đúc tiền. Thượng bộ phương lỗ hình tròn, có thẳng đọc "Quốc bảo kim quỹ" ; hạ bộ hình vuông, "Thẳng vạn" hai chữ viết đúng sự thật tại lưỡng dựng thẳng vân tầm đó. Truyền thế vẻn vẹn hai quả.

10 đại tuyền 5000: Tam quốc Ngô tiền, sử chí không tái. Năm gần đây từng có khai quật.

11 quá hạ, thực hưng: hạ Helian Bobo thực hưng trong năm (419-475) đúc tiền. Tiền văn thể chữ lệ, mặt trọng quách, tồn thế cực nhỏ.

12 vĩnh viễn quang: Nam Triều Tống trước phế đế vĩnh viễn quang nguyên niên (465) đúc tiền. Hình dạng và cấu tạo mỏng nhỏ, trọng hai thù, tồn thế cực nhỏ.

13 cảnh cùng: Nam Triều Tống trước phế đế cảnh cùng nguyên niên (465) đúc tiền. Trọng hai thù, tiền hình mỏng nhỏ, tồn thế cực nhỏ.

14 mặn Thông Huyền bảo: đường tiền. Mặn thông mười một năm (870) Quế Dương giam tiền quan Vương Đồng tạo thành, tìm tức bãi bỏ, tồn thế cực hi hữu.

15 khai mở bình thông bảo, nguyên bảo: lương tiền. Khai mở bình là thời Ngũ Đại lương Chu Ôn niên hiệu (907-911), tồn thế vẻn vẹn thông bảo, nguyên bảo đại đồng tiền tất cả một quả, đối (với) hắn thật giả tiền giới cái nhìn bất đồng. Có...khác khai mở bình nguyên bảo chì chất món tiền nhỏ, hệ nam hán Lưu ẩn dâng tặng lương chính sóc mà đúc.

16 tự nhiên nguyên bảo: thời Ngũ Đại Hậu Đường tiền. Tự nhiên trong năm (926-930) đúc.

17 Vĩnh Bình nguyên bảo: trước Thục tiền. Vĩnh Bình trong năm (911-915) đúc, tồn thế cực hi hữu.

18 thiên đức trọng bảo: mân tiền. Thiên đức trong năm đúc, có đồng, thiết hai chủng, đem làm trăm sử dụng, lưng (vác) xuyên thẳng [mặc vào] "Ân" chữ, dùng kỷ quốc hiệu.

19 Thiên Sách phủ bảo: sở tiền. Mã ân thụ lương phong Thiên Sách Thượng tướng quân, kiến Thiên Sách phủ, tại càn hóa nguyên niên (911) đúc Thiên Sách phủ bảo, có đồng, thiết hai chủng. Theo 《 mười quốc kỷ niên 》 tái, lúc ấy trong thành đi dùng thiết tiền, thành bên ngoài sử dụng đồng tiền. Hắn chỗ chỉ thành trong thành bên ngoài có thể là chỉ cảnh nội ngoại cảnh. Đồng tiền lại có lưng (vác) Long và lưu kim các loại:đợi phẩm.

20 càn phong tuyền bảo ( sở ): sở mã ân tạo thành nhiều tiền. Có đồng, thiết hai chủng (trồng), lưng có thiên, sách, Thiên Phủ, Thiên Sách, sách phủ các loại:đợi chữ, đồng tiền số lượng ít hơn so với thiết tiền, tiền văn thể chữ lệ, cùng Đường Cao Tông càn phong tuyền bảo bất đồng.

21 quảng chính thông bảo: sau Thục tiền. Mạnh sưởng quảng chính trong năm (938-965) đúc, có đồng, thiết, chì ba loại bình tiền.

22 đại Thục thông bảo: sau Thục tiền. Tiền văn hình dạng và cấu tạo cùng quảng chính thông bảo tiếp cận. Tồn thế cực hi hữu.

23 bảo vệ đại nguyên bảo ( lưng (vác) thiên ): Nam Đường tiền. Lý cảnh bảo vệ đại niên gian : ở giữa (943-957) đúc, trên lưng "Thiên" chữ, hình dạng và cấu tạo trầm trọng, tồn thế cực nhỏ.

24 vĩnh viễn thông tuyền hàng: Nam Đường tiền. Lộ ra đức năm năm (958), Lý cảnh đúc vĩnh viễn thông tuyền hàng nhiều tiền, lấy một chọi mười, tiền văn có triện, lệ hai chủng, chữ triện người so sánh mỏng nhỏ, làm hậu kỳ giảm trọng tiền.

25 đại đủ thông bảo: Nam Đường tiền. Này tiền chính phẩm vẻn vẹn phát hiện hai miếng, bởi vì văn tự hình dạng và cấu tạo cùng Đại Đường thông bảo tiếp cận, cho nên định vì Nam Đường khai quốc người từ biết cáo thăng nguyên nguyên niên (937) thành lập đất nước số đại đủ lúc tạo thành. Vừa nói vi Nam Đường hậu kỳ đúc Đại Đường thông Porsche tạo thành.

26 kiến viêm nguyên bảo: nam Tống Cao Tông kiến viêm nguyên niên ( công nguyên 1127 năm ) đúc."Kiến viêm nguyên bảo" chế tạo lượng cực nhỏ, tiền văn chữ triện, thể chữ lệ thành đôi, cùng lúc Cao Tông còn chế tạo có "Kiến viêm thông bảo", "Kiến viêm trọng bảo", đều hiếm thấy, vi tiền cổ đại trân.

27 đến ninh nguyên bảo: P kim đời (thay) vệ thiệu Vương đến ninh nguyên niên ( công nguyên 1213) chế tạo. Tồn thế chỉ vẹn vẹn có một quả gãy Version 5 đồng tiền cô phẩm, sách thể cùng Bắc Tống sùng ninh tiểu bình Khải thư tương tự. Trân hi hữu vô định giá.

28 Đại Tống thông bảo ( đem làm nhặt ): Nam Tống nhiều tiền Đại Tống thông bảo đem làm nhặt đường kính giống như:bình thường:52MM. Dày:3MM

29 trinh hữu thông bảo, nguyên bảo: đúc kỳ: tuyên tông trinh hữu trong năm (1213-1216 năm ) đặc thù thông bảo, tiểu bình, tiền văn lối chữ khải thuận đọc. Nguyên bảo tiểu bình, tiền văn lối chữ khải xoáy đọc. Trinh hữu nguyên bảo, trước kia chảy vào Nhật Bản ( Nhật Bản bình đảo xuân thủy tàng ) trong nước vẻn vẹn phát hiện này một quả.

30 Lâm An phủ đi dùng đồng chất tiền bài: Lâm An phủ đi dùng đồng chất tiền bài ( tục xưng "Suy sụp bài" ), là một loại đặc biệt giống Lâm An phủ đi dùng đồng chất tiền bài, hệ những năm cuối Nam Tống Tống lý tông thuần 衤 phải trong năm (1241—1252 năm ) tạo thành. Lâm An phủ, nay Chiết Giang tỉnh Hàng Châu thành phố, tại Bắc Tống lúc, xưng là dư hàng quận, Cao Tông nam độ sau lập thủ đô không sai, đổi tên Lâm An phủ. Lâm An phủ đi dùng đồng chất tiền bài chính là do ngay lúc đó Lâm An phủ đúc làm được. Hắn mệnh giá chia làm "Chuẩn nhị bách văn tỉnh", "Chuẩn ba bách văn tỉnh" cùng "Chuẩn ngũ bách văn tỉnh" tam đẳng."Chuẩn" vi "Bình" ý tứ, "Tỉnh" vi "Tỉnh bách", tức dùng bảy mươi bảy văn hành động 100 văn đồng tiền. Nên đồng chất tiền bài hiện lên hẹp hòi hình chữ nhật, đầu trên có một lỗ tròn, bốn phía và lỗ tròn có khuếch; chiều dài cùng độ rộng bởi vì mệnh giá lớn nhỏ mà dị, "Chuẩn nhị bách văn tỉnh" trường 6. 2 centimet, rộng 1. 9 centimet, "Chuẩn ngũ bách văn tỉnh" cỡ nhỏ trường 7. 3 centimet, rộng 2. 3 centimet, cỡ lớn trường 7. 9 centimet, rộng 2. 7 centimet; mặt văn đồng đều vi "Lâm An phủ đi dùng" năm chữ, mặt sau ghi rõ giá trị tiền, phân biệt là "Chuẩn nhị bách văn tỉnh", "Chuẩn ba bách văn tỉnh" cùng "Chuẩn ngũ bách văn tỉnh" ; mặt, lưng (vác) văn đồng đều Khải thư, mà lại chế tác tinh mỹ.

31 đại hướng thông bảo: Mông Cổ đổ mồ hôi quốc tại đổi tên nguyên trước kia xưng đại hướng lúc ( công nguyên 1227 năm ) đúc. Tiền văn Khải thư, thẳng đọc, quang lưng (vác) không văn. Có bằng bạc, đồng chất hai chủng, đồng đều vi tiểu bình tiền, tồn thế cực nhỏ, đồng chất càng hiếm thấy. Thuộc Trung Quốc cổ tuyền 50 tên trân.

32 càn hanh thông bảo: thời Ngũ Đại mười quốc thời kì nam hán Lưu Cung chính quyền càn hừ nguyên niên ( công nguyên 917) chế tạo. Giống như:bình thường chế tác không tinh, văn tự nội nhiều lưu đồng, cực nhỏ gặp. Có...khác "Càn hừ trọng bảo" đồng tiền.

3 3 ngày lộ ra thông bảo: thiên lộ ra thông bảo thể chữ lệ tiểu kính phẳng lưng (vác) vô định giá Liêu Thái Tông thiên lộ ra trong năm đúc, theo nội mông khai quật: kính 2. 38 centimet, trọng 2. 7 khắc. Văn tự tự nhiên, rất có Liêu tiền bộ dạng thùy mị, thể chữ lệ thể xoáy đọc, truyền thế cái gì hi hữu. Thái Tông thiên lộ ra trong năm (947-950 năm ) đúc, vẻn vẹn phát hiện 1 miếng cô phẩm, nên tiền đã chảy vào Nhật Bản.

34 trong thống nguyên bảo: Nguyên Thế Tổ Hốt Tất Liệt trong thống trong năm ( công nguyên 1260-1264 năm ) đúc đi. Tiền văn giai, triện hai thể, thẳng hoặc xoáy đọc. Lưng (vác) có thể thấy được tinh vân, bình tiền.

35 Vĩnh Yên mười, 500, một ngàn:, thời Ngũ Đại mười quốc thời kì chiếm giữ U Châu Lưu nhân cung, Lưu thủ quang phụ tử tạo thành tạo, Vĩnh Yên mười có đồng thiết hai chủng đồng tiền tồn thế lượng cực nhỏ, giá cả cực cao ." Vĩnh Yên 500 có đồng thiết hai chủng, đồng tiền tồn thế vẻn vẹn cô phẩm, tiền cổ to lớn trân. Thiết tiền tồn thế cũng đã có thể đếm được trên đầu ngón tay, giá cả khá cao. Ngoài ra "Vĩnh Yên 500" mặt văn hình dạng và cấu tạo đặc biệt, dựa theo phải trái cao thấp trình tự đọc, Vĩnh Yên một ngàn có đồng thiết hai chủng, đồng tiền tồn thế lượng cực nhỏ, giá cả cực cao, vi tiền cổ trân phẩm. Thiết tiền tồn thế lượng cũng đã không nhiều lắm, có thể được thiện giá.

36 ứng lịch thông bảo: Liêu quốc mục tông hoàng đế ứng bao năm qua gian : ở giữa chế tạo ( công nguyên 951~969), tiền văn thô ráp, chế thức vi tiểu bình, hiện có thế chỉ vẹn vẹn có mấy miếng. Trung Quốc tiền cổ "50 tên trân" một trong. Liêu đời (thay) ứng lịch thông bảo, đường kính 23. 5 MM, đứng hàng cổ tuyền 50 tên trân một trong, trân hi hữu, mỹ phẩm.

37 đại nguyên quốc bảo: Nguyên triều nguyên Vũ Tông to lớn trong năm ( công nguyên 1308~1311 năm ) chế tạo. Văn tự hình dạng và cấu tạo cực kỳ tinh mỹ, có dùng cô phẩm lưng (vác) Long Văn người thực tế tinh xảo, nghi là khai lò thử đúc dạng tiền. Có...khác chì tiền cô phẩm, hệ điêu mẫu.

38 thành lập đất nước thông bảo: Bắc Tống Tống Huy Tông Triệu cát có kiến trong tĩnh quốc niên hiệu, nhưng thành lập đất nước thông bảo chỉ vẹn vẹn có chữ triện, Khải thư tiểu bình đối (với) tiền tất cả một, trong đó chữ triện tiền đồng sắc vàng óng ánh, hẹp xuyên đeo chữ to, trên mặt hắc ban và trứng muối lục gỉ, nghe nói khai quật tại Tô Bắc, từng bị tiền cất chứa mọi người Robe chiêu tiên sinh dùng 400 đồng bạc mua hàng. Cũng có người cho rằng này tiền quá mức ly kỳ, hoài nghi là kiến viêm thông bảo sửa khắc mà thành, nhưng theo khảo chứng, thành lập đất nước thông bảo là lấy kiến trong tĩnh quốc niên hiệu đầu đuôi hai chữ tổ hợp mà thành chế tạo tiền, lại bởi vì Triệu cát kiến trong tĩnh quốc niên hiệu bên trong đích "Kiến trong" hai chữ cùng Đường đại mỗi năm số lặp lại, cho nên này tệ vừa mới đúc thành tựu lập tức bãi bỏ, mà sửa đúc không phải niên hiệu "Thánh Tống thông bảo", "Thánh Tống nguyên bảo" . Bởi vậy thành lập đất nước thông bảo cực kỳ quý hiếm, tồn thế lượng không cao hơn 10 miếng, không cách nào định giá, xưng thành lập đất nước thông bảo vi Bắc Tống đệ nhất quý hiếm tệ cũng không đủ. Khải thư thành lập đất nước thông bảo từ lúc Thanh mạt, dân quốc thời kì từng bị phát hiện, đáng tiếc đều đã xói mòn, 1956 năm Cẩm Châu nhà bảo tàng tại khai quật đời nhà Thanh phạm tử cùng mộ lúc, đã từng khai quật một quả thể chữ lệ "Kiến trong tĩnh quốc" tiền, đồng chất ghét bạch, thuộc về kẹp tích tiền một loại, đúng là ít thấy. Thỉnh mọi người thưởng thức nhà bảo tàng quốc gia nơi cất giấu tên trân chữ triện thể thành lập đất nước thông bảo. Căn cứ vật dụng thực tế khảo chứng chữ triện thể thành lập đất nước thông bảo bản có khác ba loại, đồng đều thuộc thử đúc.

39 bảo vệ ninh thông bảo: Liêu đời (thay) Liêu cảnh tông Da Luật Hiền bảo vệ ninh trong năm (969-978) tiền đúc, là cổ tuyền 50 tên trân một trong, tồn thế lượng cực nhỏ, ma-két trang in có chữ to, chữ nhỏ, rộng duyên, mảnh duyên, hẹp xuyên đeo, quảng xuyên đeo, lưng (vác) nguyệt vân các loại:đợi khác nhau. Hắn tiền văn phải xoáy đọc, sách thể lệ kiêm tám phần, hùng hậu phác kém cỏi, phong cách cổ dạt dào, có đặc biệt dân tộc phong cách, có thể nói ảnh hưởng tới toàn bộ Liêu một đời tiền phong. Trước mắt, căn cứ tương quan tư liệu, tập tranh ảnh tư liệu và sở kiến sở văn (*chứng kiến hết thảy), bảo vệ ninh thông bảo bình tiền công tác thống kê tồn số lượng nhiều ước tại mấy chục miếng ở trong, là Liêu tiền bên trong đích hiếm gặp phẩm một trong.

40 đến chính chi bảo: Nguyên triều thuận đế đến chính trong năm ( công nguyên 1341-1368) chế tạo. Đồng đều vi nhiều tiền, để mà đại biểu giao sao cùng tiền giấy...song song. Tiền thể trầm trọng, chế tác tốt. Có gãy mười, hai mươi, 30, 50 các loại:đợi mấy hình. Mặt văn "Đến chính chi bảo" vi đoan chính thanh nhã Khải thư, thẳng đọc. Lưng (vác) xuyên thẳng [mặc vào] "Cổ" hệ nhớ Giang Tây Jihane đạo giám chế; xuyên đeo phải "Quyền sao" hai chữ tái sinh quyền đem làm ngân sao giải. Xuyên đeo phải vi giá trị tiền ngân trọng, chứng kiến có "Ngũ phân", "Nhất tiền", "Nhất tiền ngũ phân", "Nhị tiền ngũ phân" và "Ngũ tiền" năm chủng (trồng)."Ngũ tiền" tức giá trị ngân sao nửa lượng, đồng tiền 500 văn, vi "Quyền sao tiền" chi lớn nhất người; kính đạt 8 centimet, trọng 120 khắc tả hữu, hệ từ trước tới nay xuất hiện chi lớn nhất đi dùng phương lỗ tròn tiền. Dùng đồng tiền quyền sao hành sử, lại xưng "Đến chính quyền sao" . Tiền công văn thể đặc biệt tuấn tú trôi chảy, cùng "Đến chính thông bảo" một loại thư pháp giống nhau. Cái này đồng tiền đồng đều so sánh hiếm thấy, giá cả cực cao.

41 Thánh Tống thông bảo: đường kính 2. 4 centimet, xuyên đeo 0. 65 centimet, dày 0. 1 centimet. Tiền nguyên vẹn, không thấy liều tiếp, vá chỗ hỏng, sửa khắc dấu vết, nên là một quả chính phẩm tiền cổ."Thánh Tống thông bảo" hành thư xoáy đọc, kiểu chữ cùng hành thư Thánh Tống nguyên bảo giống nhau, chỉ là "Nguyên" làm "Thông" . Lưng (vác) phải góc dưới hiện một nghiêng nguyệt, bên trái bên cạnh quách có một cái đường kính 0. 1 centimet hình tròn sâu lỗ, hình thái so sánh quy tắc, tựa hồ là dùng làm định vị dùng.

Tống Huy Tông Triệu cát tại sùng ninh hai năm (1103 năm ) đúc Thánh Tống thông bảo, đi, triện hai thể, dùng một đem làm năm, sùng ninh ba năm (1104 năm ) chính là dừng lại. Thánh Tống thông bảo tiền đi thế chỉ có 8 tháng, thế gian chứng kiến rất ít.

42 Trinh Quán bảo tiền ( Tây Hạ văn ): Tây Hạ sùng khánh Trinh Quán trong năm ( công nguyên 1101~1113 năm ) chế tạo, hình dạng và cấu tạo vi tiểu bình tiền, đường kính 2. 5CM. Tiền hình lớn hơn. Trước mắt tồn thế chỉ vẹn vẹn có một quả, cực kỳ trân quý.

4 3 ngày khải thông bảo: mặt sau có chữ viết Thiên Khải thông bảo là đời Minh đấy, minh Quang Tông không đúc tiền, bởi vì tại vị vẻn vẹn mấy tháng, chưa kịp đúc tiền, con hắn Minh Hi Tông với thiên khải nguyên niên trước bổ đúc hắn phụ niên hiệu "Thái Xương" tiền, xưng "Thái Xương thông bảo" . Này tiền vi tiểu bình tiền, lối chữ khải thẳng đọc, đồng sắc màu hồng, cũng có đồng thau tiền, phiên bản không nhiều lắm, có lưng (vác) nguyệt, lưng (vác) tinh tiền, còn có tiền kính đạt 2. 9 centimet, to như gãy hai tiền rộng Quách đại dạng tiền; cũng có tiền kính 2. 3-2. 4 centimet món tiền nhỏ. Minh Hi Tông đúc Thái Xương thông bảo tiền chỉ (cái) một năm, năm sau liền khai mở đúc "Thiên Khải thông bảo", cùng năm thiết lập hộ bộ bảo tuyền (ván) cục, xưng "Tiền công đường", từ nay về sau do hộ bộ trưởng phòng đúc tiền. Tạo thành tiền chủ yếu dùng cho quân nhu, quân đội đúc tiền lô chỉ lưu lại Tây Bắc ba trấn, Đông Nam hết thảy hủy bỏ, lúc này cả nước tạo thành ba cái tạo tệ trung tâm, phân biệt là lưỡng kinh và Tứ Xuyên khu, nhưng Thiên Khải ba năm ( công nguyên 1628 năm ), hoạn quan Ngụy Trung Hiền chuyên quyền, hoạn quan loạn chính, lạm đúc tình huống lại xuất hiện, địa phương tiền (ván) cục đại lượng xuất hiện, bởi vậy tạo thành Thiên Khải tiền phiên bản rất nhiều, sai biệt đại. Tiền lưng (vác) văn đại lượng xuất hiện nhớ đấy, nhớ (ván) cục, nhớ trọng các loại:đợi hình thức. Trước đây vẻn vẹn Vạn Lịch thời kì xuất hiện qua, nhưng phiên bản có hạn. Cho nên Minh triều tiền chế thức phức tạp thời kì là từ Thiên Khải trong năm bắt đầu đấy. Thiên Khải năm vì đền bù tài chính thiệt thòi không, kế dĩ vãng phương pháp, nhưng chọn dùng gia tăng đúc tiền lượng đến giải quyết. Dưới loại tình huống này, cả nước các tỉnh tiền (ván) cục lạm tiền ác tiền, dễ kiếm thủ lợi nhuận. Đại lượng nhẹ kém tiền trộn lẫn vào quan tiền cho đủ số, cùng Minh triều giai đoạn trước tiền đồng gắng đạt tới tinh cả mỹ quan truyền thống tạo thành tươi sáng rõ nét đối lập."Thiên Khải thông bảo" sơ đúc vi tiểu bình tiền, sau khai mở đúc đem làm mười tiền. Thiên Khải năm năm, bởi vì quan tư tạo thành nhiều tiền quá nhiều qua kém, hạ lệnh ngừng đúc, cũng do triều đình ra bạch ngân, thu về đem làm mười tiền, hắn nhiều tiền đúc kỳ bất quá ba năm; Thiên Khải tiền tiền trọng sớm định ra một tiền ba phần, ngàn tiền trọng tám cân tám lượng, nhưng về sau bởi vì quan đúc vô cùng lạm ác, món tiền nhỏ vẻn vẹn trọng bảy phần, ngàn tiền vẻn vẹn trọng bốn cân tám lượng, hàm đồng lượng chưa đủ ba thành. Ngoài ra có một loại dùng Nhật Bản chì tích tiêu dung nhập đồng tạo thành đồng hiện lên chiết sắc "Gãy cát tiền" tựu là lúc này tạo thành. Thiên Khải tiểu bình tiền phân lưng (vác) không Văn Hòa lưng có văn hai đại loại, lưng (vác) văn so Vạn Lịch tiền phức tạp, lưng (vác) đúc có Tinh Nguyệt vân chủng loại nhiều; lưng có văn phân nhớ trọng, ghi việc, nhớ (ván) cục, nhớ địa phương. Lưng (vác) ghi việc vi "Phụng chỉ" hai chữ, là lúc ấy hoạn quan, đại thần phụng chỉ làm việc tạo tiền ý tứ."Thiên Khải thông bảo" tiểu bình tiền không chỉ có lưng (vác) văn nhiều, khác đọc đúng theo mặt chữ văn lớn nhỏ, văn tự trình độ, luân(phiên) quách rộng hẹp, tiền văn kết cấu cũng có rất nhiều bất đồng, rất phức tạp nhiều biến."Thiên Khải thông bảo" đem làm mười tiền cũng chia lưng (vác) không Văn Hòa lưng có văn hai loại, gãy hai tiền tắc thì đại đô lưng (vác) không văn, tồn thế cũng ít. Cái này hai chủng tiền đều ít gặp.

Cuối thời nhà Nguyên phía nam quân khởi nghĩa hồng cân quân đứng đầu từ thọ huy công nguyên 1358 năm đúc "Thiên Khải thông bảo tiền", nên tệ tính chất vi đồng đỏ, tựu kiểu dáng có tiểu bình tiền, gãy hai tiền, gãy ba tiền ba loại, tiền văn có Khải thư cùng chữ triện hai chủng, bởi vì theo phát hành đến ngừng đúc vẻn vẹn đã trải qua một năm, bởi vậy Nguyên Thiên khải thông bảo so sánh quý hiếm, nhất là chữ triện gãy ba ngày khải tiền làm một cấp phẩm, vi chỉ có thể ngộ mà không có thể cầu chi tuyệt phẩm; mà ngày mai khải tiền tắc thì ma-két trang in khá nhiều, có tiểu bình tiền, gãy hai tiền, gãy ba tiền, gãy năm tiền, gãy mười nhiều tiền chủng (trồng), tính chất cũng vì đồng thau, nhưng tiền văn lại đồng đều vi Khải thư. Nguyên Thiên khải tiền quang lưng (vác), mà ngày mai khải tiền lưng (vác) muôn màu muôn vẻ, lưng (vác) chữ có: ngày, nguyệt, công, hộ, Chiết, kinh, mới các loại:đợi nhiều loại, kỷ giá trị có hai, mười, mười một lưỡng các loại..., đương nhiên hay (vẫn) là dùng quang lưng (vác) vi thông thường.

44 Tĩnh Khang thông bảo: "Tĩnh Khang thông bảo", "Tĩnh Khang nguyên bảo" là Bắc Tống Tống khâm tông thời kì chế tạo đấy, hắn tại vị 16 tháng đã bị bắt hướng phương bắc. Bởi vậy, "Tĩnh Khang" tiền đúc lượng rất ít, "Tĩnh Khang thông bảo" càng thêm hiếm thấy, nước phụ thuộc gia một cấp văn vật.

45 Thiên quốc thông bảo: Thiên quốc lưng (vác) thông bảo đem làm mười là Thái Bình Thiên Quốc lập thủ đô Nam Kinh sau nhóm đầu tiên thử đúc thông dụng tiền, bởi vì không lâu tức sửa đúc Thái Bình Thiên Quốc thánh bảo tiền mà thuộc tạm thời quá độ tính tiền, bởi vậy đúc ngạch có hạn mà thập phần hiếm thấy.

46 đúng thời cơ nguyên bảo: "Đúng thời cơ nguyên bảo "Đồng tiền, hệ Bắc Tống thuần hóa trong năm Lý Thuận khởi nghĩa tạo thành quân khởi nghĩa tiền,

47 hoàng thống nguyên bảo: kim đời (thay) tiền, hoàng thống trong năm (1141-1149 năm ) chế tạo, chế tác cực kỳ tinh mỹ. Tồn thế không nhiều lắm miếng hoàng thống nguyên bảo chữ triện cô phẩm.

48 ứng cảm (giác) thông bảo: Bắc Tống lúc, Lý Thuận tại 994 năm phát động khởi nghĩa nông dân, phá được Thành Đô, kiến nguyên đúng thời cơ. Từng đúc đúng thời cơ nguyên bảo. Lý Thuận sau khi chết, bộ hạ lại đúc ứng cảm (giác) thông bảo, tồn thế đều hi hữu.

49 sùng Khánh Nguyên bảo, thông bảo: sùng Khánh Nguyên bảo vi Kim Vệ thiệu Vương sùng khánh trong năm ( công nguyên 1212 năm ) tạo thành, do thanh đúc bằng đồng tạo. Có nguyên bảo, thông bảo hai chủng. Nguyên bảo vi chữ triện đem làm năm nhiều tiền ( tức gãy năm, đường kính vi 3. 5 centimet ); thông bảo có tiểu bình, gãy hai lượng chủng (trồng), tiền văn phảng phất gầy kim thể chỗ chế. Sùng Khánh Nguyên bảo truyền thế cực nhỏ, có sách vở gọi hắn là "Cô phẩm", trên thực tế theo hiểu rõ trước mắt cả nước bảo tồn có năm sáu miếng chính phẩm.

Sùng Khánh Nguyên bảo sử chí không tái. Duy Liêu trong khai quật một quả cô phẩm, to như gãy năm, hình dạng và cấu tạo cùng văn tự xấp xỉ Thái Hòa trọng bảo."Sùng Khánh Nguyên bảo" bốn chữ làm ngọc gân triện, xoáy đọc, quang lưng (vác) không văn. Tiền thể đồng sắc xanh trắng, chế tác tinh cả, văn tự xinh đẹp tuyệt trần, phảng phất sùng ninh tiền chế, nhưng cẩn thận cân nhắc nhưng không khỏi tượng khí. Cận đại kinh Thượng Hải rất nhiều tuyền gia đều thẩm vi đồ dỏm, mà tiền học giả Trịnh gia tương cho rằng đem làm thuộc kim tuyền.

50 nguyên đức trọng bảo: Tây Hạ sùng tông hoàng đế nguyên đức trong năm ( công nguyên 1119-1127) chế tạo. Ma-két trang in vi gãy Version 2 tiền. Tiền văn Khải thư, đường kính giống như:bình thường vi 2. 7 centimet. Nay tồn thế chỉ vẹn vẹn có hai ba miếng, trân hi hữu vô định giá. Sùng tông hoàng đế hướng khác chế tạo có "Nguyên đức thông bảo" tiền.

50 枚极为罕见珍贵的古钱币. 历来就是泉界收藏者倍受推崇的至上

Quảng cáo
Trước /917 Sau
Theo Dõi Bình Luận
Mạt Thế Trọng Sinh Chi Thiếu Gia

Copyright © 2022 - MTruyện.net