Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Người về đô thành báo tin chưa quay lại mà linh đường đã được chuẩn bị xong.
Thôi Hầu khóc ngất lên xuống mấy bận, Thiếu Thương bèn bảo thái y sắc một bát thuốc an thần, dỗ Thôi Hầu uống hết, chỉ nói là thuốc bổ giúp tỉnh táo, như vậy ông mới có thể lên tinh thần thu xếp hậu sự cho Hoắc phu nhân.
Giao Thôi Hầu đã say ngủ cho nô tì chăm sóc, lúc này Thiếu Thương mới đến linh đường yên tĩnh.
Lăng Bất Nghi đã cho tất cả lui xuống, một mình quỳ giữa linh đường không bóng người, lưng thẳng như kiếm, vai rộng như núi. Thiếu Thương chợt cảm giác mí mắt đau nhói – dù tai họa hay cú sốc, dù đau thương hay khổ nạn, Lăng Bất Nghi luôn lặng thinh như biển khơi mênh mông, mãi không thay đổi như núi non hùng vĩ, khiến người bên cạnh cực kỳ yên tâm.
Nhưng chỉ e không một ai hay trong lòng chàng đang nghĩ gì.
Lăng Bất Nghi ngoái đầu, gương mặt tái nhợt, làn mi dài như lông vũ, trong mắt là sự trống rỗng yếu đuối lạ lùng.
Chàng mỉm cười, như vô số lần trong quá khứ: “Thiếu Thương, em đến để khuyên ta à, không cần, ta hiểu mà. Sinh lão bệnh tử khó tránh khỏi, con người chỉ có một đời cũng như cỏ cây chỉ có một mùa xuân, bữa tiệc nào rồi cũng tới lúc tan, dù thân nhau đến đâu, dù quyến luyến tới mấy cũng đến hồi phải chia tay.”
Thiếu Thương cảm thấy lời chàng nói thật kỳ quặc,: “Dù không tránh khỏi sinh ly tử biệt, nhưng miễn là trong lòng vẫn còn ghi nhớ, dẫu phải xuống hoàng tuyền hay ở xa nghìn dặm cũng sẽ không thay đổi. Lòng người dễ đổi, nhưng lòng người cũng khó thay. Chỉ cần bản thân không muốn đổi thì cần gì quan tâm là nương dâu hay biển mây, cũng có thể làm gì được mình?”
Lăng Bất Nghi ngẩn ngơ: “Thật sự sẽ như vậy sao?”
Thiếu Thương cười nói: “Lẽ nào chàng chưa nghe đến chuyện Tinh Vệ lấp biển, Ngu Công dời núi à, nếu thật sự tuyệt vọng thì có là thần tiên cũng vô dụng!”
Lăng Bất Nghi nhìn nàng, chợt nói: “Nếu đã vậy, chi bằng hai ta cắn tay lập thệ đi?”
Gì cơ? Thiếu Thương lùi hai bước. Nói vậy là có ý gì?
Người thời đại này rất tin vào lời thề, nghi thức lập thệ thường là “xin tí huyết”, thí dụ như Vạn lão bá thề với Tiêu phu nhân sẽ tu thân dưỡng tính chẳng hạn, một lèo chặt đầu bảy con gà trống lông trắng muốt, máu gà tung tóe tại đình viện trước Cửu Truy đường, Thanh Thung phu nhân chỉ huy nô tỳ lau dọn mãi mới xua được mùi tanh.
Nhưng máu gia súc nào cao quý bằng máu người, nên các hảo hán thường cắn ngón tay lập thệ – nếu không phải ngón tay thì cũng sẽ là cánh tay.
“Chuyện.. đó, cứa gà vịt là được rồi, không cần phải cắn tay đâu.” Thiếu Thương không sợ thề nhưng nàng sợ đau.
Lăng Bất Nghi chẳng đoái hoài đến sự kháng nghị của nàng, nhẹ nhàng nhưng vẫn cố chấp kéo nàng tới quỳ xuống cạnh mình, kiên định nói: “Đối diện với mẫu thân, em hãy nói, cả cuộc đời này em mãi mãi không thay lòng đổi dạ với ta.”
Thiếu Thương cảnh giác ngả ra sau: “Chàng đừng có khôn, em chỉ nói ‘nếu chàng không thay lòng thì em cũng không đổi dạ’.”
Lăng Bất Nghi cười, nhưng trong nụ cười lại là sự chua chát, “Được, em cứ nói thế đi.”
Giọng chàng vẫn dịu dàng như mọi khi. Thiếu Thương không thể vùng vằng, cung kính lập lời thề trước linh cữu của Hoắc Quân Hoa – “Tiên linh ở trên cao, có thần linh làm chứng, tiểu nữ Trình Thiếu Thương xin thề rằng, nếu… nếu…” Nàng lén nhìn Lăng Bất Nghi, “Nếu chàng không thay lòng với con, con sẽ một lòng một dạ với chàng.”
Rồi sau đó Lăng Bất Nghi vén tay áo nàng lên, không hề khách khí cắn một cái lên cánh tay trắng trẻo mịn màng của nàng; Thiếu Thương sợ hãi rụt người về như thể gặp phải nha sĩ, đập liên tục vào lưng chàng. Tâm lý may mắn lúc đầu và đánh giá sai lệch về tính nghiêm trọng đã biến thành cơn giận khi nhìn thấy dấu răng bật cả máu trên tay, Thiếu Thương dùng hết sức từ thời bú sữa mẹ, cũng cắn lên bắp tay rắn chắc của Lăng Bất Nghi một dấu răng hiện rõ hai hàng tia máu.
Lăng Bất Nghi có vẻ không thấy đau, trái lại chàng không mấy hài lòng nhìn dấu răng, thể như Thiếu Thương không chịu dùng đủ lực, nhưng có trời mới biết Thiếu Thương cắn mạnh tới nỗi cơ nhai ở hai bên nhức nhối đây này.
Ngày hôm sau khi về nhà, A Trữ vừa xử lý vết thương trên tay Thiếu Thương vừa lắc đầu, chẳng mấy khi bà không thuật lại chuyện này với Tiêu phu nhân, “Đã không còn mẹ mà lại có người cha như Lăng Hầu, Lăng đại nhân thật đáng thương.”
Thiếu Thương ôm cánh tay bị đau, thở hắt ra sự phẫn nộ – nói thừa! Nếu Lăng Bất Nghi không vừa mất mẹ thì còn lâu nàng mới nhịn chàng nhé!
Tang lễ của Hoắc Quân Hoa rất long trọng, Hoàng đế dùng quy chế dành cho tỷ muội hoàng gia an táng bà. Lăng Bất Nghi đương nhiên là chủ tang, nhưng lúng túng nằm ở Thôi Hầu và Lăng Ích. Một người là chồng trước, một người là chồng hiện tại không có danh phận, nên sắp xếp chính phụ trong buổi tang lễ như thế nào đây. Các quan viên ở Hồng Lư tự quả là có trí tưởng tượng rất phong phú, bọn họ dể Thôi Hầu giữ vị trí huynh trưởng đằng ngoại của Hoắc Quân Hoa, còn Lăng Ích lại thuộc về chiếu khách.
Thật ra theo Thiếu Thương thấy, cặp vợ chồng hủy hôn lâm vào nông nỗi này thì không khác kẻ thù, Lăng Hầu còn đến tham dự tang lễ làm gì, Hoàng đế cũng có định gặp ông ta đâu.
Nhưng Thiếu Thương đã đánh giá thấp mức độ chịu đòn của Lăng Hầu. Ngày đưa tang, chẳng những ông ta vẫn mò mặt đến mà còn dẫn theo em trai cùng cha khác mẹ với Lăng Bất Nghi, thậm chí Dụ Xương quận chúa cũng lấy thân phận con dâu Lăng gia tương lai đến đưa tiễn. Lăng Ích định đi cạnh Lăng Bất Nghi, nhưng bị Ngô đại tướng quân mất kiên nhẫn gạt sang một bên.
Thiếu Thương cười khẩy. Vợ trước chướng mắt đã qua đời, con trai trưởng đang nắm quyền lớn có thể trở về nhà, lại có con thứ vừa được tăng quan trật và con dâu quận chúa, hay cho gia tộc Lăng thị cành lá xum xuê ngày một hưng thịnh!
Cuối cùng Lăng Ích vẫn vội vã rời đi, bởi vì từ đầu chí cuối Thôi Hầu chỉ biết khóc, khóc đến mù mắt tối tăm đất trời, xém nữa đã không đứng vững, phải nhờ Lăng Bất Nghi đỡ mới có thể lên xe ngựa. Dưới ánh mắt đầy ngầm ý của mọi người, Lăng Ích không tài nào đeo nổi lớp mặt nạ nho nhã nổi, lấy cớ đi tụt lui sau đoàn người.
Trước khi rời đi, Lăng Ích đến tìm Thiếu Thương cáo từ, Dụ Xương quận chúa đứng bên lại thấp giọng ai oán: “Tiếc thật, ít hôm nữa chính là đại thọ ngũ tuần của Quân Hầu đại nhân, trong nhà đã chuẩn bị tiệc rồi, vậy mà hôm nay lại…”
Lăng quận mã* tương lai ôm hai cục rưỡi gạch vàng lập tức cúi người nhỏ nhẹ nói: “Đa tạ quận chúa đã nhớ đến phụ thân. Phụ thân long đong nửa đời, chưa thật sự được hưởng phúc bao giờ, trong nhà tính tổ chức thọ yến lần này thật thịnh soạn để phụ thân vui, nào ngờ… Nhưng cũng may đã có quân chúa quan tâm, toàn thể Lăng gia vô cùng cảm kích.”
(*Quận mã: chồng của quận chúa.)
Dụ Xương quận chúa nhìn gương mặt tuấn tú của tiểu lang tế, dịu dàng nói: “Chàng nói gì vậy, chẳng lẽ mai sau ta không phải là người của Lăng gia, cần gì khách sáo.”
Thiếu Thương lạnh lùng nhìn hai kẻ trước mặt tung hứng như đóng kịch, ngoài mặt lại vờ giật mình: “Ôi chao, ta lại không biết gì cả, đáng đánh đáng đánh. Ngũ tuần là đại thọ, nhẽ ra Quân Hầu nên tổ chức hoành tráng mới phải, nhưng…”
Lăng Ích xua tay lia lịa, khiêm tốn nói: “Người chết là lớn nhất, mẫu thân Tử Thịnh vừa qua đời, trong nhà đang là thời điểm tang buồn, sao có thể mặt dày mở đại tiệc.” Nói xong, ông dẫn con thứ và Dụ Xương quận chúa rời đi.
Thiếu Thương đứng sau nhìn theo, trong bụng cười nhạt. Tang buồn? Thôi đi!
Hoắc Quân Hoa vừa qua đời, theo lý Lăng Bất Nghi cần thủ hiếu ba năm, nhưng Hoàng đế không muốn lùi hôn sự này thêm ba năm nữa, bèn cáo thị tả hữu rằng ngày cưới đã ấn định vẫn không thay đổi, muốn con nuôi mặc áo tang thành thân. Hoàng hậu nuối tiếc nói với Thiếu Thương: “Nếu làm thế, hôn lễ của hai đứa không thể tổ chức long trọng.”
Thiếu Thương chỉ vào gấm vóc vàng ngọc chất đầy nửa thiên điện, cười nói: “Nương nương còn muốn long trọng thế nào nữa ạ, đã cho thiếp nhiều của hồi môn thế này cơ mà, trong nhà cũng không chứa nổi.”
Khi ấy chỉ cách ngày cưới còn đúng một tuần, Hoàng hậu vẫn cho Thiếu Thương thêm của hồi môn đem về Trình phủ, còn ra lệnh Lăng Bất Nghi phải tuân theo lễ nghi, không được lén chạy tới gặp người. Lăng Bất Nghi kéo tay cô gái, nhìn nàng từ trên xuống dưới, rất không muốn buông tay.
Hoàng hậu cười nói: “Đừng có như vậy, mai sau còn có cả đời ngắm nhìn con bé mà… Bệ hạ đang tìm khanh, Sầm An Tri đã chờ ở ngoài nãy giờ rồi, khanh còn lề mề ở đấy làm gì. Cần giữ đạo hiếu, khanh càng phải hiểu chuyện hơn. Được rồi, mau buông tay thôi, Thiếu Thương cần phải đi rồi!”
Thiếu Thương ngồi trên kiệu bộ được Hoàng hậu ban, ngoái đầu nhìn bậc thềm thật cao ở Trường Thu cung, Hoàng hậu mỉm cười đứng giữa, từ xa vẫy tay với nàng. Lăng Bất Nghi bị hai tiểu hoàng môn ngăn cản, lưu luyến nhìn đội ngũ dần khuất, nắng chiều màu đỏ ánh vàng kéo dài bóng chàng, đổ theo hướng bóng lưng người con gái chàng yêu rời đi.
Lúc sắp ra khỏi cửa tây, từ đằng xa Thiếu Thương nhìn thấy Nhị công chúa và Tam công chúa, còn cả Tam hoàng tử mặc trang phục cưỡi ngựa có vẻ cũng định xuất cung, dường như ba chị em họ đang có tranh chấp.
“Chút chuyện nhỏ vậy mà huynh cũng lôi lôi kéo kéo, nếu Nhị tỷ phu cảm mạo không thể ra cửa thì còn lâu bọn ta mới tìm huynh!” Tam công chúa tức giận giậm chân.
Tam hoàng tử cao giọng: “Ta nói rồi, Thái tử huynh trưởng tìm ta có việc, mấy ngày nay ta phải đến Hồng Liễu doanh thẩm vấn vài người. Chuyện rất khẩn cấp, ta phải về phủ thu dọn ngay, làm gì có thời gian đi bái tế với hai người!”
Nhị công chúa khuyên bào muội: “Được rồi, muội chớ làm khó lão Tam nữa. Đệ ấy xưa nay có sao nói vậy, xem ra có việc gấp thật, hai chúng ta tự đi vẫn được mà.”
Tam hoàng tử vội vàng ôm quyền rồi xoay người rời đi, Tam công chúa vẫn đang tức giận, lải nhải bất mãn, Nhị công chúa không khuyên nổi, khi Thiếu Thương đến gần vẫn còn nghe Tam công chúa oán trách: “… Từ nhỏ lão Tam đã lạnh lùng với người nhà! Chuyện có quan trọng tới đâu, nói vài lời xin lỗi với chúng ta thì chết hả! Hừ hừ, biết thế năm đó hắn phong hàn sốt cao, ta đã thả thêm hai cây hoàng liên vào chén thuốc của hắn rồi!”
Thiếu Thương bước xuống kiệu, mỉm cười hành lễ với hai công chúa, lúc đứng lên thì nhận được tín hiệu muốn nàng đổi đề tài từ Nhị công chúa, nàng bèn đùa: “Ồ, hóa ra Tam hoàng tử cũng từng nhiễm phong hàn sốt cao à, vào cung lâu như vậy, ta chỉ nghe người ta khen Tam hoàng tử cường tráng từ nhỏ, không mắc bệnh nhẹ cũng chẳng đổ bệnh nặng.”
Sau khi bị Hoàng đế và Việt Phi quở trách, tính cách của Tam công chúa đã thay đổi, bây giờ không còn làm khó Thiếu Thương nữa, chỉ đảo mắt xem thường: “Lão Tam nào phải thần tiên, làm gì có chuyện không đổ bệnh, bệnh nhẹ vẫn có, nhưng bệnh nặng à… Ấy, Nhị tỷ, có phải là lần đó không?”
Nhị công chúa nhớ lại, bật cười: “Hình như muội nói đúng rồi, có vẻ là lần đó.”
Tam công chúa hừ lạnh: “Đáng đời! Xuân hành giá buốt, bọn ta ở trong phòng ôm lò sưởi, còn hắn lại chạy ra ngoài hứng gió, xiêm y bị tuyết làm ướt một nửa, đáng đời bị sốt cao!”
Trong bụng Thiếu Thương rục rịch, hỏi dò: “Thỉnh giáo hai vị điện hạ, đây là chuyện xảy ra vào năm nào.”
Tam công chúa mất kiên nhẫn: “Ngươi hỏi nhiều thế làm gì… Hình như là mười một, à, mười hai năm trước.”
Nhị công chúa lắc đầu: “Không phải, là mười ba năm trước. Hồi ấy chiến sự tạm ngưng, phụ hoàng muốn tổ chức lễ bái cho tổ phụ tổ mẫu mất sớm, Nguyên tiêu vừa qua thì dẫn chúng ta đến lăng viên Đông Bách, lão Tam bị bệnh ở đó.”
Trong lòng Thiếu Thương chợt dấy lên một suy nghĩ mơ hồ, như có hình bóng nửa thật nửa ảo trong làn sương mịt mù, chỉ nhìn thấy nhưng không thể chạm thấu.
Nhị công chúa ngạc nhiên: “Ngươi hỏi chuyện này làm gì?”
Thiếu Thương cười khô khốc: “Thiếp chỉ buột miệng hỏi mà thôi.”
Quay về Trình phủ, Tiêu phu nhân đã thu xếp chấn chỉnh phủ đệ, từ trong ra ngoài đã được chuẩn bị cho lễ cưới sắp tới.
Nghĩ tới việc con gái sắp xuất gia, cha Trình vô cùng buồn rầu, thở ngắn thở dài như bị ai đòi nợ. Tiêu phu nhân lại ôn tồn hiếm thấy, không ép Thiếu Thương đọc sách rèn chữ, cũng không chỉ trích Thiếu Thương ngủ nướng ngây ngô, chuyện gì cũng tùy nàng.
Có vài lần Thiếu Thương cảm thấy bà muốn dạy nàng đạo làm vợ, chỉ hiềm nỗi bầu không khí cứ kỳ quặc, thường là Tiêu phu nhân ngồi một lúc lâu trong phòng Thiếu Thương, hai mẹ con im lặng cho đến giờ dùng cơm.
Cuối cùng có vẻ Tiêu phu nhân đã nghĩ thông, bà nói với Thiếu Thương: “Được rồi, năm xưa trước khi ta xuất giá, đại tổ mẫu của con luôn càm ràm ta nửa ngày, nhưng ta vẫn gây nên chuyện lớn. Tử Thịnh là người thành công, con không cần sợ này sợ kia, có vài việc bản thân tự cân nhắc sẽ tốt hơn là người khác nói với mình, huống hồ ta cũng không phải là người vợ đáng khen.”
Thiếu Thương cảm thấy cũng có lý.
Tiêu phu nhân và Thanh Thung phu nhân tất bật chuẩn bị lễ cưới và đồ cưới cho Thiếu Thương, mọi chuyện thường ngày ở Trình phủ giao lại cho Trình Ương giải quyết.
Trình Ương thấy Thiếu Thương rảnh rỗi tới mức nhàm chán, thi thoảng sẽ gọi nàng đến tính toán sổ sách – mỗi khi tính sổ, Thiếu Thương không cần đến bàn tính que tính, chỉ liếc mắt nhìn qua con số một lần là đường muội có thể nhẩm tính được câu trả lời.
Hôm ấy nàng dẫn Thiếu Thương đến kiểm tra các căn nhà bỏ trống, đường muội thấy nàng ngó đông ngó tây sờ to sờ nhỏ, bèn nói: “Dù gì cũng không có ai, tân khách dự lễ cưới cũng sẽ không đến hậu viện, tỷ phí công như thế làm gì. Lâu lắm rồi Nhị thúc mới có cơ hội về, cha con hai người nên đoàn tụ với nhau, đến ngày tỷ xuất giá, chưa chắc đã có thể ôn chuyện với thúc phụ.”
Trình Ương cười nói: “Phụ thân không phải Đại bá phụ, dù khiển trách hay khen ngợi cũng nói được nửa ngày. Ngày phụ thân về nhà, nếu hai cha con tỷ mà nói hết chuyện thì sau đó chỉ biết trợn mắt nhìn nhau thôi… Hầy, vẫn nên bỏ đi.”
Nàng lại để nô tỳ cẩn thận kiểm tra vách tường nóc nhà có bị rỉ nước hay không, “Xong hôn lễ của muội sẽ đến hôn lễ của Đại đường huynh và Hủ Nga a tỷ, kế đến là lễ đón con nuôi của Nhị đường huynh – tới lúc ấy ít cũng phải mời các trưởng lão trong tộc ở quê lên, không phải những căn phòng trống này sẽ có ích à. Chúng ta chuẩn bị trước vẫn hay, đỡ sau này Đại bá mẫu lại bận bù đầu…”
Nhìn Trình Ương xoay qua xoay lại như chong chóng, Thiếu Thương thấp giọng nói: “May trong nhà có tỷ, mẫu thân có người đỡ đần nhiều.”
Trình Ương ngoái đầu cười: “Đại bá mẫu giỏi lắm, chẳng qua thời gian này nhiều chuyện dồn dập quá, bằng không bà và Thanh di mẫu dư sức xử lý, cũng không cần tỷ phải xắn tay lo liệu.”
Thiếu Thương thở dài. Được rồi, Tiêu phu nhân không yêu thương nhầm người.
Hai chị em dẫn các nô tỳ đi đến một căn gác vô cùng tinh xảo, bên trong trưng bày đủ dụng cụ âm nhạc, đàn, tiêu, huân, sanh, trống, sáo dài, sáo ngắn, cầm sắt hai mươi lăm dây, cầm sắt năm mươi dây… Thậm chí còn có một chiếc chuông đồng kiểu nhỏ.
Thiếu Thương hâm mộ: “Có lẽ đây là phòng của tổ phụ.”
Trình Ương: “Đúng thế, trước khi qua đời tổ phụ rất thích ở đây… Nhưng tổ mẫu thì không.”
Nói thừa, chồng suốt ngày đắm chìm trong âm nhạc không chịu để ý tới mình, Trình mẫu thích nơi này mới lạ ấy!
“Đây là cái gì? Trống lưng hả?” Thiếu Thương chỉ vào một chiếc trống nhỏ hình tròn đen láy, có dải băng to rũ xuống hai bên.
Trình Ương nhìn sang, ngập ngừng nói: “… Ừm, chắc là trống nhỏ đấy, lần đầu Đại bá mẫu dẫn tỷ tới đây có nhắc đến – lúc hành quân đánh giặc sẽ dùng để tổ chức binh tốt, có thể ngồi gõ ngay trên lưng ngựa.”
Thiếu Thương đi đến, dùng tay đập vào mặt trống, thân trống cất lên âm thanh sâu lắng, man mác chấn động tận đáy lòng.
Tối hôm ấy, Thiếu Thương bừng tỉnh nửa đêm, mồ hôi đầm đìa, nàng nhìn ngón tay run rẩy, giá y đỏ thẫm thêu hoa văn ánh vàng vắt trên kệ làm nàng nghẹt thở, trang phục hoa lệ sang trọng được mười hai vị tú nương cung đình mất một tháng chế tạo lại khiến nàng sợ hãi.
Ngẩn ngơ một hồi lâu, nàng khoác áo đứng dậy, cẩn thận đi vòng qua Liên Phòng đang ngủ say, một mình đi tới giữa sân.
Đêm khuya như đáy vực sâu thẳm, lạnh lẽo như màn nước, nàng lang thang dạo bước một vòng, bất giác đi tới căn gác đã đến ban ngày, lại đi vào phòng nhạc của Trình thái công.
Nàng ôm chiếc trống nhỏ, ngồi ngắm trăng qua cửa sổ.
Vỗ tiếng đầu tiên, phương xa có vạn mã rầm rập, vó phi như bay, đất rung núi chuyển; vỗ tiếng thứ hai, đao gươm lóe sáng tuốt khỏi vỏ, máu thịt tung tóe khi tướng sĩ chém giết, lưỡi mác sắc bén khiến người nghẹt thở; vỗ tiếng thứ ba, diều hâu chao liệng dưới vòm trời cao, bầu trời sáng trong được gột rửa, không lẫn khói mù; vỗ tiếng thứ tư…
Thiếu Thương đưa lòng bàn tay đau nhức lên che mắt, hai hàng nước mắt lặng lẽ chảy dài trên mặt.
Cuối cùng nàng đã hiểu vì sao mình lại bồn chồn lo lắng vô cớ, luôn đề phòng một cách vô hình. Thực ra chuyện ấy đã sớm bày ra ngay mắt nàng, nàng có thể cảm nhận được nỗi bất an, song lại không thể nói thành lời.
Cuộc đời như những hạt cát trườn trên bãi biển, sóng vỗ bờ dồn dập, dù là sóng nhẹ hay sóng lớn cũng chỉ có thể gồng mình chịu đựng.
Thiếu Thương buông bàn tay đẫm nước mắt xuống, đứng thẳng lưng lên. Nàng không thể chỉ ngồi đây khóc lóc, nàng không phải là kẻ chỉ biết chờ chết ngay từ khi còn nhỏ, nàng vẫn còn rất nhiều chuyện cần làm.