Màu Nền | |
Màu Chữ | |
Font Chữ | |
Cỡ Chữ | |
Style Combo | |
Quyển2 –Chương13: Thề đem máu biếc đền nợ nước
Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.
Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.
Sau hôn lễ của Thanh Dương, A Hành cũng cáo biệt Hoàng Đế. Hoàng Đế ân cần hỏi han thương thế của Thanh Dương, còn dặn nàng phải chăm sóc cho Đại ca thật tốt, nhắn y gắng dưỡng thương cho khỏi hẳn, không cần nôn nóng.
A Hành sớm đã liệu được Hoàng Đế sẽ dặn dò như thế, trải cả ngàn năm, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên quốc đã như hổ phục, giờ lại được Thần Nông tộc quy thuận, càng như hổ thêm cánh. Nếu Thanh Dương khỏe mạnh, Hoàng Đế mới phải ưu phiền, còn hiện giờ y đã bị thương không thể tham chính, vừa hay có thể ngăn binh quyền tập trung quá nhiều vào tay Thanh Dương.
Bá quan Hiên Viên cung tiễn A Hành lên đường đều ra sức nịnh nọt tâng bốc nàng, chỉ mình Di Bành lặng lẽ đi giữa đoàn người, phớt lờ tất cả. Tâm trạng A Hành cũng rất nặng nề, thuật làm vua vốn chỉ gói gọn trong hai chiêu: cân bằng và kìm hãm, cùng với sự quy thuận của Hậu Thổ, thế lực của Thanh Dương trong Hiên Viên tộc đã lớn mạnh quá mức, nên Hoàng Đế nhất định sẽ dùng Di Bành để cân bằng và kìm hãm Thanh Dương, có điều một khi Di Bành nắm quyền bính trong tay, ắt hẳn hắn sẽ dốc lòng tìm cách báo thù.
A Hành về tới Ngũ Thần sơn đã thấy Thiếu Hạo đứng chờ trên vọng lâu. Tiểu Yêu chẳng đợi xe mây đỗ lại đã vươn tay ra gọi: “Cha, cha!”
Thiếu Hạo giơ hai tay lên, biến thành hai con thủy long, quấn lấy Tiểu Yêu đỡ cô bé xuống. Tiểu Yêu lập tức kể khổ, nào là Chuyên Húc bắt nạt mình, không chịu tin Cao Tân đẹp gấp ngàn lần Hiên Viên, nào là có kẻ đóng giả làm cha lừa gạt cô bé, may mà hồng y thúc thúc đã đánh bại hắn, thì ra tên lừa đảo đó là một con hồ ly trắng tuyệt đẹp, còn có tới chín cái đuôi, ngay cả A Tệ cũng phải sợ hắn.
“Đó là Cửu vĩ bạch hồ, vương của Hồ tộc, cực giỏi biến hình, dù kẻ khác có thần lực cao cường đến đâu chăng nữa, cũng không nhìn ra được.” Thiếu Hạo ôn tồn giải thích với Tiểu Yêu.
Tiểu Yêu rút ra một chiếc đuôi hồ ly trắng muốt như tuyết, nhẹ xốp như mây, đẹp đến mê hồn đưa cho Thiếu Hạo, “Hồng y thúc thúc cho con cái này để chơi, Chuyên Húc thối cũng đòi một cái, nhưng đừng hòng con cho.”
Thiếu Hạo cười: “Con cất lấy đi, đó là đuôi của bạch hồ ly, tuy chỉ có một mẩu, nhưng cũng là vật bao nhiêu người ao ước đấy.”
Tiểu Yêu cầm chiếc đuôi phất qua phất lại, thuận miệng “ưm” một tiếng. Thiếu Hạo liền ẵm cô bé giao cho cung nữ, dặn chúng đưa vương cơ đi rửa mặt. Đoạn y thong dong vừa đi vừa trò chuyện với A Hành, nghe nàng thuật lại mọi chuyện xảy ra ở Hiên Viên, còn gạn hỏi thật kỹ chuyện Hậu Thổ quy hàng.
Đưa A Hành về đến tẩm thất, Thiếu Hạo mới từ biệt: “Hai mẹ con nghỉ ngơi trước đi, ta còn có việc phải giải quyết.”
Trở về, Thiếu Hạo bí mật triệu kiến An Dung, hỏi xem gã thấy thế nào về cục thế đại hoang hiện giờ.
An Dung nghiêm trang đáp: “Hiên Viên ít sông ngòi, quá nửa lãnh thổ là hoang mạc, dưới trướng Hoàng Đế thiếu đại tướng thông thạo thủy chiến, kẻ duy nhất thông thạo là Ứng Long đã mất tích từ sau nạn lụt ở Trạch Châu. Hoàng Đế ngỏ lời mời chúng ta xuất binh giúp ông ta trừ diệt Cộng Công, hứa rằng sẽ cắt đất mặt Nam Thần Nông cho chúng ta, thoạt nhìn có vẻ là chúng ta được lợi lớn, nhưng nếu Thần Nông bị tiêu diệt thì tiếp theo sẽ đến lượt Cao Tân.”
Thiếu Hạo đẩy một chồng tấu chương tới trước mặt An Dung, “Thật hiếm thấy kẻ nào thông tỏ như ngươi, đám tấu chương này bức sau đanh thép hơn bức trước, đều thỉnh cầu ta phát binh giúp Hoàng Đế diệt trừ dư nghiệt Thần Nông đấy.”
An Dung cười khổ, “Người ta chỉ biết cười lang sói tham bắt thỏ mà sa vào hố bẫy thợ săn, nào biết mình cũng là một con sói tham lam ngu xuẩn.”
“Ngươi có kế sách gì để ứng phó không?”
“Bề ngoài bệ hạ cứ đáp ứng Hoàng Đế, còn bên trong thì tăng cường huấn luyện quân đội, chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh với Hiên Viên. Cộng Công và Chúc Dung không phải đối thủ của Hoàng Đế, chỉ có thể hy vọng vào cuộc chiến giữa Xi Vưu và Hoàng Đế thôi, mong rằng dù ông ta có thắng được, cũng phải liểng xiểng.”
Thiếu Hạo phì cười, “Ngươi phân tích đúng lắm, có điều chúng ta không thể ngồi ôm hy vọng suông được, mà phải khiến Xi Vưu đánh cho Hoàng Đế dù có thắng cũng phải liểng xiểng, thậm chí lưỡng bại câu thương thì càng tốt.”
Thấy Thiếu Hạo đã có dự tính sẵn, An Dung kích động đến nỗi suýt nhảy cẫng lên, đây mới chính là Thiếu Hạo mà y dốc lòng phò tá chứ! Nhưng phải làm sao mới được đây? Cao Tân không thể phát binh giúp Thần Nông được.
“Thần ngu độn, không hiểu được ý bệ hạ.”
Thiếu Hạo đáp ngắn gọn: “Chuyện này ta đã sắp đặt cả rồi, ngươi và An Tấn chỉ cần an tâm huấn luyện binh sĩ cho thật tốt để ngày sau còn chiến đấu bảo vệ Cao Tân.”
An Dung dập đầu, “Xin nghe theo bệ hạ sai khiến.”
Sau hôn lễ của Thanh Dương, Hoàng Đế bắt đầu bố trí lại quân đội, chuẩn bị thảo phạt tàn dư Thần Nông tộc không chịu quy thuận. Trước mắt, Hoàng Đế chưa muốn giao phong chính diện với Xi Vưu, bởi một khi Hiên Viên thất bại, không những đại tổn sĩ khí mà còn khiến đám binh lính Thần Nông vừa quy hàng không lâu dao động. Cân nhắc thiệt hơn đủ cả, cuối cùng Hoàng Đế quyết định tập trung binh lực thảo phạt Chúc Dung trước. Chúc Dung là dòng dõi chính thống của Thần Nông vương tộc, chỉ cần hắn đầu hàng, đám tàn quân Thần Nông sẽ đại tổn sĩ khí.
Nghĩ trước tính sau chán chê, Hoàng Đế quyết định phái Xương Ý dẫn quân xuất chinh.
Từ sau trận hồng thủy ở Trạch Châu, Ứng Long mất tăm mất tích, Yêu tộc lòng quân bất ổn nên không thể phái tướng lĩnh Yêu tộc xuất chinh được, chỉ có dùng đại tướng Thần tộc suất lĩnh Thần tộc và Nhân tộc xuất chinh mà thôi. Hai viên đại tướng Ly Chu và Tượng Võng đang giằng co với Cộng Công, Hiên Viên Hưu và Thương Lâm lại đang trấn thủ Trạch Châu, lựa chọn thích hợp nhất chính là Di Bành, nhưng Di Bành và Chúc Dung có mối thù giết anh, mà Hoàng Đế hiện giờ chỉ cần Chúc Dung đầu hàng chứ không muốn tử chiến với hắn, nên không thể phái Di Bành đi được, cuối cùng chỉ còn lại mỗi Xương Ý. Hơn nữa năm xưa Hoàng Đế ra sức thúc đẩy cuộc hôn nhân của Xương Ý và Xương Phó, nguyên nhân quan trọng chính là nhắm vào những chiến binh kiêu dũng thiện chiến của Nhược Thủy.
Ý chỉ của Hoàng Đế truyền đến Nhược Thủy, Xương Phó biết Xương Ý căm ghét chiến tranh, bèn hỏi dò xem y có muốn kháng chỉ hay không, “Thiếp tìm lý do gì đó từ chối phắt đi, dù phụ vương tức giận cũng không làm gì được thiếp đâu.”
Nào ngờ, Xương Ý lại nói: “Không, ta sẽ chuẩn bị dẫn binh xuất chinh.”
Xương Phó hết sức bất ngờ, nhưng rồi lập tức hiểu ra ý Xương Ý. Từ sau khi Thanh Dương chết đi, một mình A Hành phải vất vả trù tính, chèo chống cả gia đình. Xương Ý không muốn dựa vào em gái để bảo vệ bản thân và mẹ nên muốn ra chiến trường, dùng hành động thực tế để bảo hộ người nhà.
Xương Ý nắm lấy tay Xương Phó, dịu dàng nói: “Nếu Đại ca còn sống, ta có thể cự tuyệt phụ vương, nhưng giờ huynh ấy đã không còn, nàng đừng tùy tiện cự tuyệt phụ vương nữa nhé. Chẳng qua phụ vương nhường nhịn nàng là vì nàng hữu dụng, ông ấy cần binh lực của nàng, nhưng nếu nàng ương ngạnh không nghe lời, nàng sẽ trở nên vô dụng trong mắt ông ấy, tới chừng đó, ông ấy có thể sẽ… sẽ tìm một kẻ khác biết nghe lời.”
Lòng Xương Phó chợt nghe ấm áp, thì ra, y cũng vì cả nàng nữa! Xương Phó ngả vào lòng Xương Ý: “Thiếp cùng đi với chàng!”
“Được!” Xương Ý mỉm cười ôm chặt lấy nàng.
Sau khi bố trí sắp xếp tỉ mỉ, Xương Ý và Xương Phó quyết định áp dụng chiến thuật đánh chớp nhoáng, dẫn theo hai trăm tướng sĩ Thần tộc và một vạn dũng sĩ Nhược Thủy lặng lẽ lên đường.
Vùng đất nơi Hiên Viên giao cắt với góc Đông Nam của Thần Nông trập trùng đồi núi, nổi tiếng là hào trời khó mà vượt qua nổi, nhưng Nhược Thủy xưa nay vẫn san sát núi non, trẻ con Nhược Thủy bảy tám tuổi đã thi leo trèo với khỉ vượn trên vách đá.
Một vạn người xé lẻ ra thành mười tổ, náu mình vào thâm sơn cùng cốc, vượt qua những rặng núi chưa ai có thể vượt qua, đột nhập vào Tuân Sơn – nơi đại quân Chúc Dung đóng giữ, hội hợp với hai trăm tướng sĩ Thần tộc cưỡi tọa kỵ tiềm nhập vào trước.
Nhạc Uyên suất lĩnh tướng sĩ Thần tộc đề nghị nghỉ ngơi một lát, nhưng Xương Ý phản đối: “Có thể che giấu được tung tích hai trăm binh sĩ Thần tộc, nhưng muốn giấu tung tích của một vạn binh sĩ Nhược Thủy thì khó lắm, mục đích chúng ta băng đèo vượt suối là muốn tiến đánh bất ngờ, khiến chúng không kịp trở tay kia mà.”
Bất chấp tướng sĩ mệt mỏi vì hành quân suốt ngày đêm, Xương Ý hạ lệnh lập tức tiến quân đánh lén Chúc Dung. Quân Hiên Viên tiến đánh quá đột ngột khiến quân đội Thần Nông chẳng kịp trở tay, trận đánh thu được kết quả mỹ mãn: hơn bốn vạn quân của Chúc Dung không địch lại được một vạn người của Xương Ý, đại quân thua tan tác, chỉ còn chưa đầy một vạn người chạy vào Tuân sơn.
Trong trận đánh du kích đó, hơn hai vạn quân Thần Nông tử trận, còn Nhược Thủy chỉ tổn thất hơn một ngàn người, trong đó là hơn một trăm người đang trên đường vượt núi, không may rớt xuống vách núi. Trận thắng lớn này đã tạo nên một kỳ tích, đến nỗi rất nhiều năm về sau, hễ nhắc đến nam nhi Nhược Thủy, người ta lại nhớ đến chiến thuật đánh du kích đáng sợ của họ. Dân gian còn truyền tụng rằng, núi cao đến đâu, sông sâu chừng nào cũng không ngăn nổi bước chân nam nhi Nhược Thủy.
Tin Hiên Viên đại thắng lập tức lan truyền khắp đại hoang, dân chúng Hiên Viên vui mừng nhảy múa, còn Thiếu Hạo lại rầu rĩ ủ ê. Tuy y chẳng trông mong gì vào Chúc Dung, nhưng cũng không ngờ hắn lại thua dễ dàng đến vậy. Hiện giờ Hoàng Đế hẳn đã giở ngón sở trường ra để công kích Chúc Dung, trước là đè bẹp cái sắc bén của hắn, khiến hắn khiếp sợ, rồi sau đó lại dùng thủ đoạn lung lạc, thi ân dụ hàng, thu nạp hắn vào dưới trướng.
Quả nhiên, đúng như Thiếu Hạo dự liệu, Xương Ý và Xương Phó được lệnh đóng quân dưới Tuân sơn, không tiếp tục tấn công lên nữa. Chúc Dung cũng bí mật gặp gỡ với sứ giả của Hoàng Đế, bàn bạc điều kiện, đồng thời sắp xếp nghi thức đầu hàng.
Từ khi Xương Ý xuất chinh, A Hành vẫn sát sao quan tâm từng chút một, mãi tới lúc nghe nói Chúc Dung đã quyết định đầu hàng, nàng mới thở phào nhẹ nhõm.
Lâu lắm không chơi đùa với Tiểu Yêu, hiện giờ mọi chuyện đã tạm ổn, A Hành bèn dắt Tiểu Yêu tới Kỳ viên du ngoạn. Trên đỉnh núi có suối băng nước lạnh tự nhiên. Tiểu Yêu sợ nóng nên rất thích nghịch ngợm trong suối băng. Như tất cả những đứa trẻ Cao Tân, cô bé từ nhỏ đã dầm mình trong nước mà lớn lên, rất thông thạo thủy tính, cứ liên tục leo lên bờ rồi lại lập tức nhảy ào xuống nước, thả sức vui đùa.
“Mẹ ơi, nước ở đây lạnh quá.” Tiểu Yêu ngoi lên mặt nước, thích thú hét.
A Hành thò tay xuống thử nước, cười nói: “Con sợ nóng như thế thì nên ở Hiên Viên mới phải. Tầm này chắc Hiên Viên sắp đổ tuyết rồi.” Nhớ đến mưa tuyết đầy trời, A Hành lại nghĩ đến những trái dâu lạnh chua chua ngọt ngọt, lòng chợt dậy lên nỗi nhớ quê.
Tiểu Yêu nghe mẹ kể chuyện đắp người tuyết, chơi ném tuyết, vô cùng mê mẩn, nhưng nghĩ đến Chuyên Húc lại thấy bực mình, “Hừ! Con không thèm chơi với Chuyên Húc đâu!” Nói xong ùm một cái, lại ngụp xuống nước, tự chơi một mình.
Liệt Dương đứng trên đầu cành bảo A Hành: “Là tiết trời đã chuyển lạnh. Tuy các người là Thần tộc, nhưng không thể mẫn cảm với thiên địa linh khí bằng thực vật được, cô nhìn kỹ cây cối bên bờ mà xem, tất cả đều không ổn.”
A Hành nói: “Làm sao có thể mãi mãi không đổi suốt bao nhiêu năm được? Thời tiết ngẫu nhiên thay đổi cũng là chuyện thường thôi.”
Liệt Dương khinh khỉnh hừ mũi: “Chẳng nhẽ ta không phân biệt được bình thường và khác thường sao? Nói cho cô biết, là địa khí không bình thường đó!”
A Tệ đang dùng cả tứ chi vọc nước, cái đuôi phe phẩy đập lên mặt nước, tỏ ý đồng tình với Liệt Dương.
Chẳng hiểu sao, trước những trận thiên kiếp như động đất sóng thần, kẻ phát hiện ra đầu tiên luôn là động vật và thực vật chứ không phải những kẻ trong Thần tộc tự xưng linh lực cao tường. Nghĩ vậy, A Hành liền cảnh giác hỏi: “Có gì khác thường?”
Liệt Dương đáp: “Phượng Hoàng nội đan của ta tính thuộc hóa, tương thông với hỏa linh trong trời đất, mấy ngày nay, hỏa linh quanh đây biến động rất khác thường, có điều không ở Ngũ Thần sơn nên ta cũng chỉ cảm giác được có vậy mà thôi, không nói rõ ra được.”
Hỏa linh? A Hành lập tức liên tưởng đến Chúc Dung, lòng chợt dâng lên một linh cảm không lành. Nàng vội gọi cung nữ lại, dặn dò bọn họ đưa Tiểu Yêu về Thừa Ân cung.
“Liệt Dương, chúng ta về đại lục ngay, ngươi ráng cảm nhận cho kỹ hỏa linh biến hóa thế nào nhé.”
A Hành, A Tệ và Liệt Dương bay về hướng Tây, băng qua biển cả mênh mông, thẳng đến đại lục. Liệt Dương nhả Phượng Hoàng nội đan ra, chăm chú cảm nhận hỏa linh, lúc nó bay vút lên không, lúc lại nhào xuống đất, A Hành và A Tệ chỉ đứng một bên đợi.
Hồi lâu Liệt Dương mới quay lại báo cáo với A Hành: “Có lẽ là cao thủ Thần tộc đang bày trận pháp, dẫn phát linh khí biến đổi, hỏa linh bên dưới đều tụ lại một nơi cả.”
“Vì sao không phải là Yêu tộc chứ? Biết đâu đại yêu quái nào đang luyện công thì sao?”
Liệt Dương cười nhạt, “Phượng Hoàng sinh ra trong lửa, chết vùi trong lửa, yêu quái nào dám triệu tập hỏa linh trước mặt ta?”
“Hỏa linh hội tụ về phương nào?”
“Bên đó.” Liệt Dương trỏ về phía Thần Nông quốc. “Kẻ bày trận hết sức thận trọng, chỉ điều động hỏa linh từ sâu trong lòng đất lên mà thôi, không động gì tới hỏa linh ở các nơi khác, nên rất khó phát hiện.”
“Hắn triệu tập nhiều hỏa linh như thế làm gì?”
Liệt Dương ngưng thần nghĩ ngợi một lát rồi đáp, “Cô trông thấy núi lửa phun rồi chứ?” Liệt Dương điểm ngón tay một cái, trên mặt đất liền xuất hiện một đám lửa cháy phừng phừng, “Núi lửa phun trào, đất rung núi chuyển, trời đất đều hóa thành biển lửa, dù Thần tộc thần lực cao cường tới đâu cũng chỉ như con sâu cái kiến quằn quại giữa đống lửa này mà thôi.”
Chúc Dung đóng quân ở Tuân sơn, nếu Tuân sơn nổ tung thì Tứ ca và Tứ tẩu… A Hành lạnh toát cả người, vội xé nửa ống tay áo, cắn ngón tay viết vội viết vàng một bức huyết thư, đưa cho Liệt Dương, “Ngươi lập tức bay về Hiên Viên thành, giao phong thư này cho phụ vương, bay nhanh nhất có thể nhé.”
Liệt Dương biết là chuyện nước sôi lửa bỏng, lập tức bay vút về phía Tây.
A Hành tâm hoảng ý loạn, chân nhũn cả ra, phải cấu thật mạnh vào người mới bình tĩnh mà suy nghĩ được. Ngũ hành tương khắc, Thủy khắc Hỏa, tuy Chúc Dung đã sắp bày xong trận pháp nhưng Cao Tân cũng có rất nhiều cao thủ về thủy linh, miễn là Thiếu Hạo đồng ý trợ giúp, có lẽ sẽ hóa giải được kiếp nạn này.
Nghĩ vậy, A Hành vội vã quay về Ngũ Thần sơn tìm Thiếu Hạo.
Thiếu Hạo đang nghị sự với mấy vị đại thần, nhắc tới việc Hiên Viên ngày càng lớn mạnh, sớm muộn sẽ có ngày tấn công Cao Tân, mọi người đều căng thẳng lo lắng.
Thị vệ ngăn A Hành lại, phân trần rằng nàng phải đứng ngoài chờ nghị sự xong, không được bước vào. A Hành đang lúc khẩn trương, chẳng nề đẩy cả thị vệ ra, xông thẳng vào đại điện, đám thị vệ liền nhốn nháo ngăn cản.
Thiếu Hạo nghe tiếng xôn xao bèn ngẩng đầu nhìn ra ngoài, thấy A Hành đang giằng co với đám thị vệ, y liền đưa mắt cho kẻ hầu bên cạnh, tên hầu lĩnh ý vội chạy ra, quát đám thị vệ dừng tay.
“Xin hỏi vương phi có việc gì?” Kẻ hầu hành lễ cung kính hỏi.
A Hành chẳng nói chẳng rằng chạy thẳng tới trước mặt Thiếu Hạo, quỳ sụp xuống, dập đầu.
Thiếu Hạo thấy tay áo nàng rách toạc, nửa cánh tay lộ ra ngoài, quần còn vương vệt máu vội bước xuống ngai vàng, định đỡ nàng dậy, bây giờ mới phát hiện hai tay A Hành lạnh ngắt, “Có chuyện gì thế?”
A Hành nắm chặt lấy tay y, móng tay bấm vào da thịt, như chết đuối vớ được cọc, “Xin bệ hạ xuất chinh cứu mạng Tứ ca thiếp.”
Thiếu Hạo còn đương ngỡ ngàng chưa hiểu, An Tấn tính tình thẳng thắn đã đỡ lời: “Cả thiên hạ đều biết tin Xương Ý vừa đại thắng, dù có phải chết cũng là Chúc Dung bỏ mạng, đâu đến lượt Hiên Viên vương tử.”
“Nhưng Liệt Dương vừa phát hiện ra hỏa linh dưới lòng đất đang tụ về hướng Tuân sơn.”
“Vậy thì sao chứ?” An Tấn vẫn chưa hiểu ra vấn đề.
Thiếu Hạo nghe đến đây liền hiểu ra ngay, một dải Tuân sơn dồi dào hỏa linh nên Chúc Dung định hội tụ địa hỏa, biến nó thành một ngọn núi lửa, một khi núi lửa phun trào thì không cách gì ngăn được, tới chừng đó, chẳng ai có thể chạy thoát.
Quý Ly cũng hiểu ra, bèn góp lời: “Sao có thể chứ? Sao Chúc Dung lại tự mình hại mình như vậy? Nếu núi lửa phun trào thì bản thân hắn cũng chạy không thoát mà? E rằng vương phi hiểu lầm rồi, liệu có phải hắn định dùng chuyện này để uy hiếp Hoàng Đế, đòi thêm điều kiện gì chăng?”
Thiếu Hạo lặng thinh không nói. Tham lam, nhỏ mọn, ghen ghét đều chỉ là tiểu tiết, phục vụ quốc gia và thần dân của mình mới là đại nghĩa. Những kẻ chỉ khư khư tránh tiểu tiết chắc gì đã có đại nghĩa, tựa như các quần thần ngày ngày đứng giữa triều đường Cao Tân rao giảng lễ nghĩa quy củ vậy, thoạt nhìn có vẻ đạo cao đức trọng, nhưng tương lai biết đâu chính họ lại là những kẻ đầu hàng Hoàng Đế trước tiên; còn những kẻ xem trọng tiểu tiết cũng chưa chắc không có đại nghĩa, tựa như những người dân thường trên phố vậy, ngày ngày đều tính toán chi li, so đo từng ly từng tí, vì chút lợi lộc mà chẳng nề trộm cắp đốt nhà, nhưng khi nguy nan ập đến, rất có thể bọn họ lại lấy thân báo quốc.
A Hành thấy Thiếu Hạo làm thinh, bèn nài nỉ: “Thiếp đã gủi thư cho phụ vương, khẩn cầu người lập tức phái binh cứu trợ Tứ ca, nhưng đường sá xa xôi, đi đi về về có nhanh đến mấy cũng phải mất một ngày đêm, chỉ có Cao Tân ở gần đó, lại có nhiều cao thủ thủy linh, nếu hiện tại lập tức xuất chinh thì chỉ một ngày là đến được Tuân sơn, phá vỡ trận pháp của Chúc Dung.”
Thiếu Hạo cúi đầu trầm tư, hồi lâu không đáp, nếu như hôm nay y cứu trợ Hiên Viên, ngày sau Hiên Viên tiến đánh Cao Tân, ai sẽ cứu Cao Tân đây?
Đoán được tâm tư Thiếu Hạo, An Dung cao giọng: “Cao Tân không thể xuất binh được!”
Quý Ly ôn hòa hơn, uyển chuyển lựa lời: “Đã biết là núi lửa bùng nổ, nếu Cao Tân phát binh, chẳng phải là đẩy tướng sĩ đi tìm chết sao?”
A Hành vội thuyết phục: “Trận pháp lớn như vậy, hiện giờ Chúc Dung không đủ nhân lực, lại nôn nóng hoàn thành thật nhanh nên chắc chắn sẽ có nhược điểm. Thủy khắc Hỏa, chỉ cần chúng ta lập tức tiến công, lấy ưu thế tương khắc mà đánh nhanh thắng nhanh, hẳn tỷ lệ tử thương rất thấp. Thiếp xin đi theo đại quân, đảm bảo sẽ là người đầu tiên tấn công, người cuối cùng rút lui.” A Hành nắm chặt lấy tay Thiếu Hạo, ngẩng đầu nhìn y, lấy sự sống chết của mình ra bảo đảm để Thiếu Hạo cho mượn binh.
Thiếu Hạo vẫn lặng thinh không nói, chỉ có An Dung lên tiếng: “Vương phi cũng biết đấy, Cao Tân không giống như Hiên Viên, Cao Tân đã lập quốc mấy vạn năm nay, pháp lệnh quy củ nghiêm ngặt, dẫu là quân vương cũng không thể tùy tiện phát binh. Vả lại, nếu các binh sĩ Thần tộc biết được họ bị đẩy tới chỗ núi lửa sắp phun trào, nhất định sẽ không chấp nhận, mà gia tộc của họ sau này cũng không thể kính phục bậc quân vương đùa bỡn với tính mạng con cháu họ.”
A Hành khẩn khoản nhìn Thiếu Hạo, nước mắt lã chã: “Thiếp biết quân đội Thần tộc của các nước đều rất đáng quý, chàng không thể vì lời thỉnh cầu của một người đàn bà mà mạo hiểm phát binh, huống hồ giữa hai ta lại chẳng hề có tình cảm, nhưng thiếp xin chàng, xin chàng nể giao tình giữa chàng và Đại ca thiếp, cho thiếp mượn một cánh quân đi, thiếp sẽ bảo đảm an toàn cho các binh sĩ Cao Tân?”
An Tấn giễu cợt: “Vương phi bảo đảm an toàn được cho họ ư? Vương phi chỉ là một người đàn bà, chưa từng ra trận, có hiểu chiến trường là thế nào không? Vương phi lấy gì để bảo đảm an toàn cho họ?”
Quý Ly lắc đầu thở dài, “Ngay cả những tướng quân trung thành với bệ hạ nhất trong đại điện này vương phi còn không thuyết phục được, huống gì tộc trưởng các tộc và các vị đại thần?”
Hai vị tướng quân khác cũng lắc đầu phản đối, đua nhau khuyên Thiếu Hạo không thể phái binh vào chỗ chết. An Tấn thấy mọi người tán đồng với mình, lại vàng to mồm phản đối, từng bước lấn át A Hành.
Nghĩ đến Tứ ca đang ngàn cân treo sợi tóc, bi ai và phẫn hận trào lên trong lòng A Hành, nàng đột ngột đứng phắt dậy, tuốt bội đao giắt nơi thắt lưng An Tân, vung đao chém xuống, An Tấn vội né người tránh đi, chỉ thấy máu bắn tóe lên, phun cả vào mặt hắn, ngón út bàn tay trái của A Hành đã biến mất, máu chảy xối xả, nàng đanh giọng hỏi An Tấn: “Ta có thể bảo đảm được chưa?”
An Tấn nào ngờ vị vương phi bề ngoài yếu đuối này lại quyết liệt đến nhường ấy, chỉ biết ngây ra nhìn A Hành. An Dung định mở miệng nói gì đó nhưng đã bị ánh mắt A Hành chấn nhiếp, không sao cất nổi nên lời. Quý Ly và hai vị tướng quân khác cũng sững sờ trước hành động của A Hành, lắp bắp mãi không ra tiếng.
Thiếu Hạo vội vã nắm lấy tay A Hành, toan cầm máu cho nàng nhưng A Hành đã đẩy tay y ra, quỳ sụp xuống, tha thiết vật nài: “Xin bệ hạ cho thiếp mượn một cánh quân thôi.”
Thiếu Hạo lòng đau như cắt, tái mặt đáp, “Nàng cần gì phải như vậy? Trước hết lo cầm máu đi đã.” Đâu phải y không muốn đáp ứng A Hành, nhưng y là vua một nước, hôm nay hứa một lời cũng chẳng mất mát gì, nhưng ngày sau mấy chục vạn bách tính vô tội của Cao Tân phải lấy tính mạng ra đền lại thì sao?
A Hành thấy y trù trừ không chịu đáp ứng, liền nôn nóng sẵng giọng chất vấn: “Khi trước ai từng nói ‘từ rày trở đi, ta chính là Thanh Dương’? Đại ca thiếp thà hy sinh tính mạng, cũng quyết không để kẻ khác làm thương tổn đến bọn thiếp.”
Thanh Dương… Thiếu Hạo run bắn, lồng ngực thoắt lạnh buốt, thoắt nóng rực, tưởng như nỗi đau đớn và tuyệt vọng khi Thanh Dương chết đi lại quay về. Hơn ai hết, y rất mong mình có thể đáp ứng A Hành, thậm chí y không dám mở miệng, chỉ e vừa cất lời sẽ đáp ứng nàng ngay. Y nắm chặt tay lại thành quyền, cố ngăn bản thân không kích động. Hôm nay không cứu trợ Hiên Viên, y cũng không còn mặt mũi nào gặp lại Thanh Dương nằm trong cỗ quan tài thủy tinh kia nữa, chỉ càng thêm căm ghét sự vong ân bội nghĩa của chính mình mà thôi; nhưng nếu cứu quân đội Hiên Viên, y chẳng những phụ chính mình, mà còn phụ Nặc Nại dấn thân vào hang hùm miệng cọp, thâm nhập doanh trại địch, phụ cả An Dung, An Tấn dốc hết nhiệt huyết phò tá y, phụ tất cả thần dân của y, khiến vô số bách tính Cao Tân phải lênh đênh khổ sở, sống không bằng chết.
Thấy Thiếu Hạo mím chặt môi, chẳng nói chẳng rằng. A Hành nước mắt đầm đìa, dập đầu lia lịa thành tiếng, “Chàng đã đáp ứng với Đại ca thiếp thế nào? Đó là Tứ ca Xương Ý của thiếp mà! Chàng đã chứng kiến Tứ ca sinh ra lớn lên, từ bé huynh ấy đã gọi chàng là ‘Thiếu Hạo ca ca’, coi chàng như đại ca mình, thuở nhỏ chàng còn ẵm huynh ấy đi chơi, chiêu kiếm đầu tiên huynh ấy biết cũng là do chàng dạy.”
Thiếu Hạo không hề nhúc nhích, nét mặt trơ trơ, thoạt nhìn có vẻ bình tĩnh, nhưng bàn tay giấu trong tay áo vì linh lực xáo động, máu tươi đã ứa ra theo kẽ móng tay, nhỏ tong tỏng xuống đất, vừa hay nhỏ đúng vũng máu của A Hành nên nhất thời không ai để ý.
A Hành dập đầu đến gần toạc cả trán mà Thiếu Hạo vẫn lạnh lùng đứng đó, cuối cùng nàng tuyệt vọng, bèn đứng dậy, đau đớn nói: “Thiếu Hạo, Đại ca ta nhất định không tha thứ cho ngươi đâu! Giao tình ngàn năm, từ nay cắt đứt!”
Dứt lời nàng quay ngoắt người chạy ra ngoài, huýt một tiếng lanh lảnh, nhảy lên lưng A Tệ, bay vút đi, chớp mắt đã biến mất.
Người Cao Tân tôn thờ màu trắng, nên đai điện lát toàn bạch ngọc, máu đỏ thắm nhỏ lên nền đá bạch ngọc, càng thêm chói mắt.
Thiếu Hạo thần người nhìn những giọt đỏ thẫm tí tách nhỏ xuống.
“Bệ hạ.” Quý Ly định mở miệng tấu trình.
“Ra ngoài cả đi!” Thiếu Hạo xua tay, giọng trầm thấp lạnh lùng, không chút biểu cảm.
Đám cận thần cung kính lui ra khỏi đại điện. Cách một thông đạo dài đằng đẵng, họ thấy giữa đại điện sáng sủa mà trống trải, đấng quân vương của họ vẫn đứng sững đó, không hề nhúc nhích.
Thiếu Hạo thẫn thờ nhìn vũng máu của A Hành đọng lại trên sàn.
Cứ ngỡ rằng, ngày dài tháng rộng, nước chảy đá mòn, rồi sẽ có một ngày y đợi được nàng ngoảnh lại, trông thấy một người vẫn luôn đứng bên nàng. Có lẽ đến lúc ấy nàng sẽ bằng lòng làm vợ y, thực sự làm vợ y, nhưng hết lần này sang lần khác, y đều tự tay đẩy nàng ra xa.
Máu nàng vương trên nền bạch ngọc, đỏ đến nhói lòng, tựa như muôn vàn cánh đào nở rộ.
Lòng y chợt động, sực nhớ ra trong thiên hạ này vẫn còn một kẻ vô câu vô thúc, phóng khoáng tự do, bất chấp tất cả!
Y lật đật rút ra một mảnh khăn lụa cũ, nhúng tay vào vũng máu A Hành trên sàn, bắt chước nét chữ của nàng, viết vội viết vàng một phong thư cầu cứu.
Viết xong, y lại do dự, thật sự phải gửi phong thư này đi ư? Một khi gửi đi rồi, có lẽ mọi ràng buộc giữa y và A Hành sẽ hoàn toàn đứt đoạn, một khi gửi đi rồi, chính là giúp cho A Hành và Xi Vưu nối lại duyên xưa.
Ánh mắt y lạnh ngắt như tro tàn, nhưng chỉ một khắc sau, y đã gọi Huyền điểu lại, nghiêm trang mà rành rọt ra lệnh: “Đưa phong thư này tới Trạch Châu, giao cho Xi Vưu.”
Sáng hôm sau, A Hành đến Tuân sơn, đang len lén lẻn vào trong núi thì một mũi tên xé gió bay vút đến.
Nàng vung tay, mũi tên liền bay ngược trở lại, lập tức một bóng người lao đến tấn công nàng, thanh chủy thủ loang loáng dưới nắng mai, phát ra hàn quang quen thuộc.
A Hành vội gọi: “Tứ tẩu, là muội đây.”
Xương Phó khựng lại, “Sao muội lại ở đây?” Nhác thấy tay áo A Hành rách toạc, khắp người đầy máu, nàng kinh ngạc hỏi: “Xảy ra chuyện gì vậy?”
“Đừng lo cho muội, muội có chuyện cần nói riêng với tẩu.”
Xương Phó cho đám binh sĩ theo mình đi tuần lui ra, bấy giờ A Hành mới hỏi: “Chúc Dung hẹn khi nào thì đầu hàng?”
“Chính là hôm nay, Xương Ý đã đi tiếp nhận đầu hàng rồi. Chúc Dung muốn phụ vương phong cho hắn chức quan cao hơn Hậu Thổ, đất phong cũng phải lớn hơn, phụ vương đều đáp ứng cả. Hắn còn đòi phụ vương đích thân tới đây tiếp nhận sự đầu hàng của hắn, nhưng phụ vương cự tuyệt, chỉ đáp ứng khi nào hắn tới Hiên Viên thành, sẽ cử hành nghi thức long trọng nhất để nghênh tiếp.”
Thấy A Hành tái mặt, Xương Phó hỏi: “Rốt cuộc có chuyện gì?”
“Chúc Dung không thật lòng quy hàng đâu, hắn vờ đầu hàng dụ quân ta tới để giết đó.”
Xương Phó cười đáp: “Việc này ta đã phòng hờ cả rồi, nên mới không đi cùng Xương Ý, một khi xảy ra biến cố, ta sẽ lập tức tiếp ứng ngay.”
A Hành buồn bã nói: “Chúc Dung đã bày bố trận pháp, điều động địa hỏa dưới lòng đất, định sẽ dẫn cho núi lửa bùng nổ, khiến tất cả cùng chết.”
Xương Phó kinh hoàng há hốc miệng, ngay sau đó, nàng quay phắt người định chạy đi nhưng bị A Hành giữ lại, “Tẩu đừng cuống lên, lỡ Chúc Dung phát hiện chúng ta đã biết, hắn sẽ lập tức phát động trận pháp đấy.”
Xương Phó vẫn run lên, “Dù có chết, ta cũng phải chết chung với Xương Ý.”
A Hành trấn an nàng, “Muội hiểu mà, tẩu đi tìm Tứ ca, bảo Tứ ca nói với Chúc Dung rằng, phụ vương đột ngột thay đổi chủ ý, quyết định sẽ đích thân tới tiếp nhận đầu hàng, tối nay là đến nơi.”
“Liệu hắn có tin không?”
“Căm hận làm mờ mắt! Phụ vương khiến Thần Nông quốc sụp đổ, Chúc Dung hận phụ vương hơn ai hết, căm hận sẽ khiến hắn mất đi sáng suốt, tẩu cứ cố gắng trì hoãn nhé, trì hoãn được lúc nào hay lúc nấy. Hôm qua muội đã gửi thư cho phụ vương rồi, cứ theo tốc độ của Liệt Dương thì đến nửa đêm là phụ vương nhận được, chắc hẳn giữa đêm hôm đã điều binh đi rồi, chỉ cần trì hoãn đến chập tối, quân cứu viện của Hiên Viên sẽ đến.”
Xương Phó không hổ là nữ kiệt nổi tiếng đại hoang, chỉ lát sau đã trấn tĩnh lại, khôi phục khí độ tộc trưởng, “Ta vốn đã bàn với Xương Ý, chàng dẫn một trăm tướng sĩ Thần tộc và năm ngàn chiến binh Nhược Thủy đi tiếp nhận đầu hàng, ta chỉ huy những người còn lại trấn giữ ở đây, một khi có biến, ta sẽ lập tức đem binh tiếp ứng. Hiện giờ, những người đi theo Xương Ý tuyệt đối không được manh động, bằng không Chúc Dung sẽ lập tức phát động trận thế. Chỉ cần cố gắng bảo toàn những chiến sĩ đóng ở đây, ta sẽ đi đến chỗ Xương Ý, ra sức trì hoãn Chúc Dung, đợi cứu viện của phụ vương đến, muội hãy dẫn tất cả binh sĩ ở đây rút lui ngay.”
Dứt lời Xương Phó giao binh phù cho A Hành, toan đi ngay, nhưng A Hành kéo nàng lại, chần chừ một thoáng rồi nói: “Thực ra vẫn còn một cách là tẩu và Tứ ca cưỡi Trùng Minh điểu đi ngay bây giờ, phái một chiến sĩ Thần tộc linh lực cao cường giả trang làm Tứ ca đánh lừa Chúc Dung, tuy không kéo dài được lâu, nhưng cũng đủ để hai người rời khỏi đây rồi.”
Xương Phó bình tĩnh đáp: “Nhưng năm ngàn chiến binh Nhược Thủy sẽ không thoát được, trước khi dắt bọn họ rời Nhược Thủy, ta đã kính rượu dập đầu trước Thần thụ Nhược Mộc, tổ tiên của Nhược Thủy tộc, nếu bọn họ không thể quay về, ta cũng chẳng còn mặt mũi nào về nữa. Tứ ca muội cũng sẽ không vứt bỏ một trăm chiến sĩ Hiên Viên tộc mà bỏ chạy một mình đâu.” Xương Phó nắm chặt lấy tay A Hành, “Các tướng sĩ ở đây nhờ muội cả đấy.” Nói rồi, lập tức quay người bỏ đi.
A Hành vỗ đầu A Tệ, lẩm bẩm: “Ta biết mà, nhất định Tứ ca Tứ tẩu không chịu làm theo cách thứ hai đâu. Nếu ta bảo mày đi, chắc chắn mày cũng không chịu, ta cũng chẳng nên nhiều lời nữa nhỉ?”
A Tệ gục gặc đầu.
“Cũng tốt, dù sao Liệt Dương không ở đây, nếu chúng ta… Ít ra cũng còn Liệt Dương nuôi nấng Tiểu Yêu, có điều, không biết Liệt Dương sẽ dạy dỗ Tiểu Yêu thành ra thế nào.”
A Tệ khẽ dụi đầu vào tay A Hành, nét cười lấp lánh trong mắt. A Hành cũng phì cười, xoa xoa đầu A Tệ, nước mắt lăn dài, hạ giọng: “Cảm ơn mày.” Cùng sống cùng chết, không lìa không bỏ, nói thì dễ, nhưng chân chính thực hiện có được mấy ai? Tình nghĩa cả ngàn năm giữa Thanh Dương và Thiếu Hạo cuối cùng cũng không hơn được giang sơn xã tắc của Thiếu Hạo kia mà.
A Hành cầm binh phù bước vào doanh trại, cũng không nói rõ sự tình với tướng sĩ mà chỉ triệu tập hai viên tướng Nhược Thủy tộc, lệnh cho bọn họ lập tức dẫn binh âm thầm rút lui, hành quân thần tốc, giữa đường không được dừng lại nghỉ ngơi, kẻ nào dám trái lôi ra chém.
A Hành lại triệu tập một trăm thần tướng Hiên Viên tộc, lệnh cho bọn họ nhóm lửa thổi cơm khắp xung quanh, làm thật nhiều con rối, cho mặc quần áo như thật rồi dùng linh lực điều khiển chúng đi qua đi lại, tạo nên khung cảnh vui vẻ tưng bừng, người người mừng rỡ, đợi đến tối hẵng kết thúc.
Hơn một giờ sau, thấy mặt trời sắp lên đến đỉnh đầu, A Hành bí mật tập hợp một trăm tướng lĩnh Thần tộc lại. Nàng vốn không định nói sự thật với bọn họ, e họ kinh hoàng hoảng loạn, nhưng lại chẳng biết nên ra lệnh thế nào cho phải. Nhìn những gương mặt bừng bừng nhiệt huyết của họ, nghĩ tới việc họ cũng có cha mẹ người thân, nàng thực không muốn giấu diếm nữa.
“Sâu bên dưới lòng đất nơi chúng ta đang đứng đây đều là địa hỏa, chỉ cần chủ nhân phát động trận pháp, núi lửa lập tức bùng nổ, dải núi này sẽ bốc cháy phừng phừng, phun ra dung nham nóng bỏng làm tan chảy cả đá tảng, tọa kỵ của các người có nhanh đến đâu cũng không thoát nổi.”
Một trăm tướng sĩ Thần tộc biến sắc, ánh mắt lộ vẻ kinh hãi.
“Sáng nay ta đã nói với Xương Phó, bảo Tứ tẩu đi trước, nhưng Tứ tẩu nói dù mình giữ được mạng cũng không còn mặt mũi nào trông thấy cha mẹ người thân của các chiến binh Nhược Thủy nên quyết định ở lại, giúp Tứ ca ta trì hoãn Chúc Dung. Tuy ta nắm giữ binh phù, nhưng ta thấy mình không có quyền bắt các ngươi xông vào chỗ chết, nếu các ngươi muốn đi thì đi ngay bây giờ đi.”
Mọi người lặng yên không đáp, nhưng vẻ mặt lại dần kiên định hẳn lên.
Một thiếu niên mặt mày sáng sủa lên tiếng: “Vương cơ, lẽ nào người quên rằng Hiên Viên tộc nổi danh dũng mãnh thiện chiến ư? Chúng tôi đều là tinh nhuệ do Hoàng Đế đích thân tuyển lựa, còn năm ngàn một trăm huynh đệ ở lại đây, nếu chúng tôi bỏ chạy một mình, đừng nói sẽ không thoát được hình phạt của Hoàng Đế, mà còn trở thành nỗi ô nhục của gia tộc. Người cứ việc ra lệnh đi!”
A Hành chăm chú nhìn những nam nhi này, lần đầu tiên cảm nhận được trong cơ thể mình và bọn họ đều có chung huyết mạch Hiên Viên, vì cùng chung huyết mạch nên có thể chia ngọt sẻ bùi, cùng vào sinh ra tử. Nàng cố nén cảm xúc đang trào lên, cất tiếng: “Trận pháp lớn thế này, không thể chỉ dựa vào linh lực một mình Chúc Dung, nhất định có những người khác đang giúp đỡ hắn, nhiệm vụ của các người là tìm cho được bọn chúng rồi tiêu diệt! Tuy trận pháp đã hình thành, làm thế này không thể phá giải được, nhưng cũng giảm thiểu được phần nào uy lực của nó, giúp thêm nhiều binh sĩ có thể rút lui an toàn.”
Đoạn nàng quay sang hỏi kẻ vừa lên tiếng: “Ngươi tên gì?”
“Mạt tướng Nhạc Uyên.”
“Nhạc Uyên, ta không rành điều binh khiển tướng, ngươi lại đây định đoạt xem nên thực hiện thế nào cho hiệu quả.”
“Vì không biết những người kia ẩn nấp ở đâu, nên chỉ có thể dốc sức lùng tìm trên diện rộng thôi, hai người hợp thành một tổ, chia ra mà hành động!”
“Được, cứ vậy đi!”
Một trăm tướng sĩ nhất loạt quỳ xuống nhận lệnh. Nhạc Uyên xé một mảnh chiến bào, vội vàng lấy máu viết mấy dòng lên đó đưa cho A Hành, “Nếu tôi không thoát được, phiền vương cơ nghĩ cách giao thứ này cho cha tôi.” Những người khác thấy vậy cũng tới tấp noi theo. Chẳng ai nói với ai một lời, tất cả chìm trong không khí trầm mặc mà hào hùng, coi chết như về.
A Hành nuốt lệ, cởi áo khoác ra, gói tất cả những bức huyết thư đó lại, cột lên lưng A Tệ, “Đây là áo làm từ tơ băng tằm do mẫu hậu ta dệt thành, nước lửa không thiêu hủy được, hiện giờ ta phải tới gặp Tứ ca, giúp huynh ấy lần lữa với Chúc Dung, đợi cứu binh tới. Ta cũng không rõ mình có thoát được hay không, nhưng ta bảo đảm, những bức thư này nhất định sẽ đến tay người nhà các ngươi.”
Các tướng sĩ chia ra hai người thành một tổ, tản đi bốn phương tám hướng, khuất dạng giữa rừng cây. Bấy giờ, A Hành mới ngoảnh mặt về phía bọn họ khuất bóng, quỳ xuống, lặng lẽ dập đầu ba cái.
Những nam nhi kiêu dũng ấy là con dân Hiên Viên! Chưa bao giờ nàng kiêu hãnh vì mình là vương cơ Hiên Viên đến thế!
A Hành vơ lấy một bộ khôi giáp của binh sĩ mặc vào, đoạn quay sang bảo A Tệ: “Chúng ta đi gặp Chúc Dung.”
A Tệ đập cánh bay vút lên, cõng nàng đến nơi Chúc Dung ước định đầu hàng.
Đỉnh núi ba bề cao chót vót, chính giữa là một khe sâu, có dòng suối uốn mình chảy qua, nếu núi lửa phun trào, dung nham chẳng mấy chốc sẽ đổ xuống đây.
A Hành bảo A Tệ: “Ta nhờ mày một việc nhé, mau bay đi đem gói thư này đến một nơi an toàn.”
Thấy A Tệ rưng rưng nước mắt, A Hành xoa đầu nó dỗ dành: “Ta biết mày không muốn, nhưng mày nhất định phải thay ta hoàn thành việc này, ta đã hứa với bọn họ rồi.”
A Tệ lưu luyến liếm tay A Hành rồi bay thẳng về hướng Tây. A Hành nhìn theo bóng A Tệ, khẽ mỉm cười, A Tệ, đồ ngốc ạ, nếu chỉ còn lại một mình, hẳn Liệt Dương sẽ cô đơn lắm, mày phải bầu bạn cùng nó nhé!
Thấy Xương Ý và Xương Phó đang ngồi trên phiến đá chơi cờ vẻ nhàn nhã, A Hành liền tiến lại: “Tứ ca, Tứ tẩu.”
Xương Phó kinh ngạc trừng mắt nhìn nàng, còn Xương Ý giận dữ hỏi: “Chẳng phải Xương Phó bảo muội dẫn quân rút lui ư?”
“Bọn họ đều là chiến sĩ đã được huấn luyện, một khi nhận được mệnh lệnh sẽ lập tức chấp hành, cần gì muội chỉ tay năm ngón.”
Xương Ý cương quyết: “Muội đi ngay cho ta.”
A Hành ngồi xuống bên Xương Ý, đặt tay phải lên đầu gối y, “Tứ ca, nếu đổi lại là huynh, huynh có đi không? Huynh đừng ép muội! Huynh có thể đuổi muội, nhưng muội sẽ quay lại, cùng lắm thì trốn đi không để huynh thấy là được chứ gì.”
Xương Ý chăm chăm nhìn A Hành hồi lâu, rồi giơ tay xoa đầu nàng, không nói gì thêm nữa.
A Hành đứng dậy nhìn sang sườn núi bên kia, chỉ thấy thấp thoáng sau bóng cây, một dàn những lá cờ Ngũ Sắc Hỏa Diễm rực rỡ tung bay trong gió, từng đội quân xếp hàng ngay ngắn đứng dưới cờ, khôi giáp lấp loáng, giáo gươm chói lọi khiến người ta chẳng dám nhìn thẳng.
Xương Ý lên tiếng: “Hôm nay vừa thấy bọn chúng ta đã biết là không ổn, đâu ra chuyện hàng binh lại hừng hực khi thế như vậy chứ? Ta cứ ngỡ rằng chúng chỉ trá hàng, nên đã cùng Xương Phó chuẩn bị sẵn cách đối phó, nào ngờ thông minh lại bị thông minh làm hại.”
Đột nhiên, một giọng sang sảng vang lên trong sơn cốc, Chúc Dung đứng trên đầu núi hỏi vọng vào: “Rốt cuộc Hoàng Đế có đến không hả?”
Xương Ý đáp: “Đại tướng quân nói vậy là có ý gì?”
Chúc Dung lạnh lùng: “Chẳng có ý gì cả, Hoàng Đế xưa nay quỷ kế đa đoan, ta chỉ muốn hỏi cho rõ ràng thôi.”
Xương Ý đáp: “Nếu đại tướng quân không muốn đợi thì chúng ta cứ tiếp nhận đầu hàng trước, khi nào phụ vương tới, ta sẽ thỉnh tội sau vậy.”
Im lặng.
Một lúc sau, Chúc Dung lên tiếng: “Đợi thêm lát nữa đi!”
Bấy giờ, trái tim đã thót lên đến cổ họng của Xương Phó và A Hành mới từ từ trôi trở xuống. Xương Phó kể với A Hành: “Chúc Dung đa nghi, cứ chốc chốc lại lên tiếng nói chuyện với Xương Ý để chắc chắn rằng chàng vẫn ở đây, hơn nữa hắn còn vận linh lực nói chuyện, buộc chàng cũng phải vận linh lực trả lời, nếu cho người khác giả mạo, hắn sẽ phát hiện ra ngay.”
A Hành đáp: “ Hắn không chỉ thăm dò đâu, mà dường như đợi mãi sốt ruột rồi, e rằng hắn cũng đang phân vân. Một mặt hắn không tin lời chúng ta, ngỡ ràng chúng ta đã phát hiện ra quỷ kế của hắn nên cố ý lần lữa, mặt khác hắn lại thầm hy vọng phụ vương sẽ đến, để kéo Người chết chung, rửa nhục cho Thần Nông quốc.”
Xương Ý nhìn quanh bảo A Hành: “Tiếc rằng cây ngọc tiêu lại để trong doanh trại, không mang theo người, muội đi chặt dùm ta một đoạn trúc.”
A Hành vội vào rừng chọn lấy một cây trúc, Xương Phó đưa chủy thủ tùy thân cho Xương Ý, chẳng mấy chốc, y đã vót được một cây trúc tiêu, cười nói: “Tuy không dám bì với Ngự Âm thuật của Yến Long, nhưng tiếng tiêu cũng là tiếng lòng, hy vọng có thể khiến Chúc Dung bớt nôn nóng.”
Nói rồi, y đặt trúc tiêu lên môi bắt đầu thổi, tiếng tiêu dìu dặt uyển chuyển, trong trẻo êm ái, như từng trận gió xuân thổi qua mặt đất khiến A Hành thấy lòng bình lặng hẳn. Nàng chợt sinh lòng kính phục Tứ ca, tiếng lòng không thể nào giả dối được, Tứ ca nàng thật sự tâm bình khí hòa, không lo không sợ nên mới cất lên được tiếng tiêu như vậy. Thường nghe nói tới lúc nguy nan mới biết được chí khí con người, khí độ này của Tứ ca thật khó ai bì kịp.
Chúc Dung mang dòng dõi vương tộc, chắc chắn từng học qua lễ nhạc, biết tiếng tiêu là tiếng lòng, tự nhiên nghe tiếng tiêu cũng hiểu được lòng kẻ thổi tiêu, nghi ngờ tiêu tan hết cả.
Xương Ý ngồi trên phiến đá chuyên chú thổi tiêu, Xương Phó ngồi bó gối lặng lẽ nghe, mắt không rời Xương Ý, ánh mắt miên man tình ý.
A Hành ngồi tựa vào gốc cây, ngước nhìn tán lá xanh um trên đầu, thần tình hoảng hốt, lúc thấy Xi Vưu, lúc lại thấy Tiểu Yêu hiện lên trước mắt.
Khúc nhạc đã dứt, núi rừng lại chìm vào tĩnh lặng, mọi người đều lặng thinh chờ đợi, có lẽ vì chờ đợi chính là tử vong, nên trước sự nặng nề của sinh mệnh, cả đỉnh núi cũng lặng ngắt như tờ, sơn cốc im phắc như chết, không một tiếng chim chóc.
Khi mọi người đợi đến phát bực, Xương Ý lại tấu lên một khúc, tiếng tiêu như mưa phùn lất phất, xoa dịu những trái tim đang nôn nóng.
Vầng dương dần ngả về Tây, cứu binh Hiên Viên vẫn chưa thấy đâu.
Xương Phó không nhịn được, hỏi A Hành: “Liệt Dương có tin được không?”
A Hành cũng hoang mang hoảng hốt, tính thời gian, đáng lẽ cứu binh phải đến từ lâu rồi mới phải. Chẳng đợi A Hành đáp, Xương Phó lại cuống quýt hỏi: “Lẽ nào phụ vương không chịu phát binh? Muội có nói với phụ vương là việc rất khẩn cấp không?”
“Xương Phó!” Xương Ý nắm tay Xương Phó, dịu dàng nhìn nàng. Xương phó chợt thấy lòng bình lặng hẳn, bao sợ hãi kinh hoảng đều tiêu tan cả, nàng quay sang nói với A Hành: “Xin lỗi, tiểu muội.”
“Thằng nhãi Xương Ý dám lừa ta!” Rốt cuộc Chúc Dung cũng nhận ra Hoàng Đế sẽ không đến, nổi giận gầm vang cả núi rừng, “Ngươi tưởng kéo dài thời gian thì có thể phá được trận pháp của ta ư? Đừng hòng! Tất cả các ngươi sẽ phải bỏ mạng ở đây! Cả ngọn núi này sẽ biến thành núi lửa, không một kẻ nào thoát được đâu!”
Đám binh sĩ kinh hoàng hoảng hốt, cả đội hình tức thì rối loạn.
Xương Ý đưa mắt nhìn Xương Phó, thấy nàng gật đầu kiên nghị, y siết chặt tay nàng lần nữa, đoạn buông ra, rút phắt trường kiếm, bước đến trước hàng quân, lướt mắt nhìn tất cả mọi người. Trước ánh mắt điềm tĩnh bình thản của y, các binh sĩ dần dần bình tĩnh lại. Một binh sĩ Thần tộc cao giọng hỏi: “Vương tử, núi lửa sẽ bùng nổ thật sao? Chúng tôi đều phải chết à?”
Tất cả binh lính đều yên lặng đổ dồn mắt về phía Xương Ý, khát vọng cầu sinh ánh lên trong mắt. Xương Ý điềm đạm đáp: “Ta không thể cho các ngươi bất cứ hy vọng gì, điều duy nhất ta có thể hứa là, ta nhất định sẽ đứng chắn phía trước tất cả các ngươi.”
Nghe vậy, các binh sĩ đều lặng đi rồi lẳng lặng ai về chỗ nấy, lòng dũng cảm dần dần át đi nỗi sợ bản năng. Chính vì có lý trí nên con người ta mới là người, là linh khí của vạn vật.
Chúc Dung đứng trên đỉnh núi nhìn xuống, dưới chân là đầu lâu của mấy kẻ vừa bị hắn chém bay đầu.
Vì sợ tiết lộ tin tức ra ngoài nên Chúc Dung chỉ nói với tướng sĩ là trá hàng. Vừa rồi, nghe hắn nói núi lửa sẽ bùng nổ, tướng sĩ Hiên Viên tộc kinh hãi đã đành, tướng sĩ Thần Nông tộc cũng hốt hoảng chẳng kém. Vài ba kẻ kinh hoàng toan bỏ chạy liền bị Chúc Dung chém bay đầu, hắn giẫm lên đầu những người đó, hỏi đám binh sĩ còn lại: “Các ngươi muốn chết trong vinh quang hay muốn làm đào binh chết dưới tay ta?”
Hết thảy binh sĩ đều trợn tròn mắt nhìn Chúc Dung, thế này là lựa chọn kiểu gì đây? Chọn thế nào cũng chết cả!
Chúc Dung rống lên: “Đừng hận ta, không phải ta không cho các ngươi cơ hội sống, mà là chúng!” Hỏa đao của hắn chỉ thẳng về phía quân Hiên Viên, “Bọn chúng đã giết người thân của chúng ta, hủy diệt gia viên của chúng ta, triệt đường sống của chúng ta! Lẽ nào các ngươi quên rồi sao?”
“A…” Bị nỗi kinh hoàng dồn đến chân tường, đám binh sĩ Thần Nông tộc tựa hồ đã biến thành một bầy quái vậy khát máu, hú lên thê thiết.
Nước đã mất, nhà đã tan, giờ chỉ còn một cái mạng này thôi! Bất kể là máu của bản thân hay của kẻ địch, chỉ có máu tươi mới có thể xoa dịu được cơn phẫn nộ đang cuộn lên trong lồng ngực.
Chúc Dung đạp lên mấy chiếc đầu lâu, nhìn đám binh sĩ dưới trướng, ngửa mặt cười ha hả.
Một chiếc bóng đỏ rực xẹt ngang trời như ánh chớp, thoắt cái đã đến trước mặt.
Xi Vưu đứng trên lưng đại bàng, ngạo nghễ giữa tầng không.
A Hành tròn mắt nhìn lên trời, như không dám tin, nàng còn tưởng mình vừa bị ảo giác.
Chúc Dung lập tức cưỡi Tất Phương điểu bay tới, “Ta không cần ngươi giúp, đến từ đâu thì cút về chỗ đó đi!”
Xi Vưu cười, “Đừng nóng, ta có đến giúp ngươi đâu!”
Chúc Dung đanh mặt lại, giận dữ hỏi: “Lẽ nào ngươi định giúp Hiên Viên?”
Xi Vưu ôm quyền đáp: “Chính thế.”
Cả Thần Nông lẫn Hiên Viên đều kinh hoàng.
“Ngươi…” Chúc Dung giận đến run bắn người lên, “Ta sớm đã biết ngươi là đồ cầm thú mà! Chỉ không ngờ ngươi còn chẳng bằng cầm thú nữa, ngươi có khác gì mấy tên phản bội kia, rặt một phường hèn nhát!”
Xi Vưu đáp: “Hẳn ngươi cũng biết đám thuộc hạ của ta đều là đồ điên giống ta cả, bọn chúng chỉ thừa nhận ta, chứ không thừa nhận Thần Nông quốc, nếu ta phản bội, chúng cũng sẽ phản bội theo. Có sự hỗ trợ của chúng, lại thêm hiểu biết của ta về sơn thế địa khí, ngươi thử nghĩ xem mình còn cơ hội phát động trận pháp không?”
Nghe câu này, Chúc Dung cứng họng, Xi Vưu bẩm sinh đã rất mẫn cảm đối với địa khí, có hắn ở dây, e rằng không cách nào phát động trận pháp được, “Rốt cuộc ngươi muốn làm gì?”
Xi Vưu thu lại nụ cười, dõng dạc nói với binh sĩ Thần Nông tộc: “Ta và Du Võng đã thề, chỉ cần y không thất tín, ta sẽ vĩnh viễn không phản bội y, đương nhiên cũng phản bội lại con dân của y. Nhưng ta cũng là một người đàn ông, ta từng thề với một cô gái Hiên Viên tộc rằng, bất kể nguy hiểm gian khó tới đâu, ta cũng sẽ bảo vệ cho nàng.” Nói rồi hắn trỏ về phía A Hành, tất cả binh sĩ trên núi dưới núi đều đổ dồn mắt về phía nàng, bấy giờ mới phát hiện kẻ mặc khôi giáp ấy là một nữ tử.
“Ta không thể thất tín với nàng, nên hôm nay ta đến đây để đồng sinh cộng tử với nàng, các người đều là những hán tử dũng cảm nhất Thần Nông tộc, nếu các ngươi nghĩ tới người con gái của mình, hẳn có thể hiểu được lời thề của một người đàn ông với người con gái mà hắn yêu thương nhất mực.”
Nói rồi Xi Vưu đặt tay lên ngực, hành lễ với đám binh sĩ Thần Nông. Mọi người đều im lặng, bầu không khí nặng nề như một trái núi, đè lên trái tim tất cả.
Chúc Dung hừ lạnh: “Một người không thể chia làm hai nửa, ta thật không hiểu ngươi làm thế nào để vửa trung với Thần Nông, vừa trung với Hiên Viên đây!”
Xi Vưu xòe tay ra, chỉ thấy trong lòng bàn tay hắn là chín cây đinh dài màu tím, “Chắc ngươi biết đây là gì chứ hả?”
Chúc Dung biến sắc, “Cửu Tinh Tỏa Linh đinh.” Vật này do Viêm hậu đời thứ ba triệu tập thợ giỏi khắp thiên hạ rèn ra, vì Viêm Đế mắc phải bệnh lạ, linh lực rối loạn, thân thể co quắp, Viêm Hậu tinh thông y thuật, muốn hóa giải đau đớn cho Viêm Đế bèn chế ra Cửu Tinh Tỏa Linh đinh, ghim những cây đinh này vào huyệt vị, có thể phong tỏa linh khí vận hành. Nhưng những cây đinh này luyện thành từ những vị thuốc có tác dụng phá hoại thần lực cực mạnh, khi ghim vào cơ thể sẽ đau đớn như bị ngàn vạn con kiếm cắn xé, khó mà chịu nổi, nghe nói Viêm Đế đời thứ ba mới bị ghim bốn cây đinh vào người đã không sao chịu nổi, thà để cho linh khí giày vò mỗi ngày, còn hơn là ghim thêm đinh vào cơ thể.
Xi Vưu đặt một cây đinh nhắm chuẩn huyệt Thiên Đột trên yết hầu, dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể, sắc mặt hắn cũng lập tức trắng bệch ra.
Tiếp đến là huyệt Trung Đình ngay giữa ngực, hắn lại dùng lực vỗ mạnh, cây đinh cắm phập vào cơ thể.
Huyệt Thần Khuyết, huyệt Hoàn Khiêu, Tất Dương quan…
Xi Vưu đau đến vã mồ hôi lạnh, sắc mặt thoắt sạm thoắt tái, khiến rất nhiều người không đành lòng nhìn nữa, chỉ mình Chúc Dung vẫn chăm chú quan sát, không hề chớp mắt.
Sau cùng, Xi Vưu đau đến không đứng nổi nữa, phải quỵ một chân xuống, nhưng vẫn gắng gượng ghim nốt cây đinh cuối cùng vào huyệt Kim Môn dưới gan bàn chân, đoạn cười nhìn Chúc Dung: “Một nửa thuộc về Thần Nông, nửa kia thuộc về ta.”
Chúc Dung đáp: “Ta không nương tay đâu, nếu còn gặp lại, ta sẽ nhắm vào nửa người không có linh lực của ngươi.”
Xi Vưu ôm quyền đáp: “Hiện giờ ta không phải Xi Vưu của Thần Nông tộc mà chỉ là một gã đàn ông đang bảo vệ người con gái mình yêu, ta cũng sẽ không nương tay với ngươi đâu.”
“Chỉ dựa vào nửa phần linh lực, nửa bên người của ngươi ấy à? Đồ điên!” Chúc Dung khinh khỉnh hừ mũi, quay người bỏ đi.
Xương Ý nhìn Xi Vưu đang tái nhợt vì đau, thần sắc phức tạp. Xương Phó hạ giọng thì thào: “Chắc hẳn giờ chàng đã hiểu vì sao tiểu muội không quên nổi hắn rồi chứ?”
Xương Ý quyến luyến nhìn Xương Phó, chẳng giữ vẻ điềm đạm ôn nhã khi trước nữa, ánh mắt chỉ còn tình ý miên man không gì ngăn nổi. Xương Phó nhoẻn cười với phu quân, dịu giọng: “Chàng đi đi!” Xương Ý cũng mỉm cười, nhảy lên tọa kỵ Trùng Minh điểu, dẫn một trăm tinh nhuệ Thần tộc từ trên không lao xuống tấn công Chúc Dung, Xương Phó suất lĩnh binh sĩ Nhược Thủy tộc từ chân núi đánh thốc lên.
Tiếng hô “giết” vang động cả sơn cốc.
Xi Vưu đáp xuống bên cạnh A Hành, thấy nàng một mực cúi gằm mặt, gọi mấy tiếng cũng chẳng thưa, bèn cười hỏi: “Ây, ta liều chết chạy đến đây, tốt xấu gì nàng cũng phải tỏ thái độ chứ.”
A Hành không đáp, chỉ lao vụt đi.
Xi Vưu lẵng nhẵng bám theo không rời, vừa đuổi theo vừa hỏi: “Rốt cuộc nàng muốn thế nào? Đầu ta không thể chia làm hai được, đành nhất nhất nghe theo nàng thôi.”
A Hành cúi đầu đáp: “Đi tìm Chúc Dung.”
Xi Vưu nửa bế nửa ném A Hành lên lưng Tiêu Dao, bấy giờ mới phát hiện gương mặt nàng đầm đìa nước mắt, hắn chợt nghe lòng xao động, bèn vòng tay ôm chặt lấy nàng, khẽ hôn lên má: “Nàng khóc vì ta đấy ư? Thế này thì dẫu phải chết cũng đáng lắm.”
A Hành không nói nên lời, chỉ siết chặt tay Xi Vưu. Vừa nãy chứng kiến Xi Vưu bất chấp bị mọi người khinh bỉ, thản nhiên thừa nhận bản thân là tướng quân Thần Nông tộc lại đem lòng yêu thương một cô gái Hiên Viên tộc, còn vì lời thề với nàng mà cắm từng từng cây đinh vào cơ thể, nàng chợt nhận ra, bất luận kẻ trước mặt đây đã giết hại bao nhiêu tộc nhân của nàng, bất luận phải gánh chịu bao nhiêu gian nan đau khổ vì hắn, cũng có hề gì, thậm chí nếu phải chết ngay lúc này đây, nàng cũng chẳng còn gì hối tiếc.
Tiêu Dao bay rất nhanh, chỉ mấy cái chớp mắt đã đến được ngọn núi chính trong dãy Tuân sơn.
A hành đang lo không biết Chúc Dung nấp ở đâu, chợt trông thấy từng chuỗi bong bong do máu tươi hóa thành, từ trong rừng bốc lên.
“Bên kia kìa!”
Tiêu Dao đáp xuống, thấy trên mặt đất có năm thi thể binh sĩ Hiên Viên. Một tên tùy tùng của Chúc Dung vừa chém bay đầu một chiến sĩ Hiên Viên, còn đương kinh ngạc không hiểu sao linh lực kẻ này lại yếu đến vậy, chợt phát hiện ra hắn đã lợi dụng cái chết để biến linh huyết của mình thành tín hiệu.
A Hành liếc nhìn chiếc đầu lâu đó, liền nhận ra Nhạc Uyên, hắn đã dùng cái chết của mình để chỉ điểm cho nàng phương hướng của Chúc Dung, nàng vội quay sang bảo Xi Vưu: “Giúp ta chặn đám binh sĩ Thần Nông kia lại.” Dứt lời nàng vội bổ theo hướng Nhạc Uyên chỉ, đi tìm Chúc Dung.
Sau lưng bắt đầu vang lên tiếng vật lộn giao đấu nhưng A Hành chẳng dám ngoảnh lại nhìn, cứ lao thẳng tới trước. Ngay từ đầu, Chúc Dung hẳn đã dặn kỹ thuộc hạ cách để đối phó Xi Vưu – tập trung tấn công vào nửa bên người không có linh lực.
Xi Vưu chỉ còn lại nửa phần linh lực làm sao địch nổi bấy nhiêu cao thủ Thần tộc, A Hành không biết, cũng chẳng dám nghĩ nhiều, nàng chỉ biết cắm đầu chạy thẳng một mạch, sớm tìm được Chúc Dung chừng nào, hy vọng sống của bọn Tứ ca sẽ lớn thêm chừng ấy.
Cuối cùng, A Hành cũng tìm thấy Chúc Dung trên sườn núi quay về phía mặt trời. Hắn đang hướng về phía Thần Nông sơn, dập đầu bái lạy, đây chính là lễ tiết chính thức của Thần Nông vương tộc, lần trước nàng từng trông thấy lễ tiết này trên Tiểu Nguyệt đỉnh, lúc Viêm Đế lâm bệnh nặng, bên đống lửa, Du Võng cũng hành lễ với Viêm Đế như vậy. Nhớ lại chuyện đó, A Hành chợt thấy long chua xót, dừng sững lại.
Chúc Dung khấu bái xong bèn đứng dậy, hướng về phía Thần Nông sơn nói: “Đời này ta chỉ làm sai duy nhất một việc, là đã để Hoàng Đế lợi dụng sự căm hận của ta đối với Xi Vưu, nghe lời lão ta xúi giục mà kích động Du Võng thân chinh. Ta muốn làm Viêm Đế, muốn giết chết Xi Vưu, nhưng trước giờ, ta chưa từng nghĩ sẽ phản bội Thần Nông tộc!”
A Hành thầm nhủ, chẳng trách Chúc Dung hận Hoàng Đế đến vậy, thì ra Hoàng Đế đã lừa gạt lợi dụng hắn, thông qua đó giết hại Du Võng.
Nói đoạn, Chúc Dung ngoảnh lại nhìn A Hành: “Hạng tiểu nhân đê tiện như Hoàng Đế, làm sao hiểu được mối liên hệ huyết mạch trong gia tộc? Đó là cội rễ từ ngàn đời nay, vậy mà lão lại định dùng quan tước mua chuộc cội rễ duy nhất của ta. Ta những muốn thiêu cháy lão thành tro bụi, để cho lão biết, trong thiên hạ không phải cái gì cũng có thể mua chuộc được! Nể tình ngươi vừa nãy không đánh lén ta, cũng không quấy rầy ta hành lễ, ta tha mạng cho ngươi đấy, ngươi mau chạy đi!”
Thấy A Hành ngơ ngác, Chúc Dung cười, “Ta chính là trận pháp! Dù hiện giờ ngươi giết ta, cũng không thể ngăn ta phát động trận pháp!” Thì ra Chúc Dung lấy thân thể mình làm trận nhãn, bất kể hắn sống hay chết, cũng không thể ngăn trận pháp phát động.
Chúc Dung thúc đẩy linh lực, ngọn lửa ngũ sắc thêu trên chiến bào lập tức biến thành lửa thật, bừng bừng bốc cháy dưới chân hắn. Cả người hắn dần đỏ hồng lên, rọi sáng rực cả nửa bầu trời, không ngờ hắn đã điểm U Minh hỏa vào trong cơ thể, ngọn lửa càng cháy càng bốc cao, thấy rõ đến từng chiếc xương của hắn.
A Hành thấy đất dưới chân rung lên, vội loạng choạng lùi lại, kinh hoàng nhìn Chúc Dung. Nàng từng bị U Minh hỏa thiêu đốt nên rất hiểu cảm giác đau đớn đến tận xương tủy ấy, vậy mà Chúc Dung vẫn bất chấp lửa đỏ thiêu đốt, chẳng ngại trả giá đắt, hủy diệt cả linh thể và nhục thể để bố trí tử cục này.
Chúc Dung đứng giữa ngọn lửa ngũ sắc phừng phừng, dang hai tay cười lớn, “Cháy đi, cháy lên đi! Liệt tổ liệt tông Thần Nông tộc, đây là tế phẩm cuối cùng ta dâng lên các người!”
A Hành sực tỉnh, vội quay người lao thẳng xuống núi, đồng thời Xi Vưu cũng đang xông lên núi. Lúc này, cả hai đều có chung một ý nghĩ, dù có chết cũng phải chết bên nhau.
Trên một đỉnh núi cách đó khá xa, Xương Ý và Xương Phó đang ở giữa chiến trường cũng cảm thấy đất dưới chân chấn động mạnh, nhìn ngọn lửa ngút trời bốc lên từ đỉnh núi chính trong dãy Tuân sơn, mọi người đều biết đã không còn đường thoát, trước kiếp nạn khủng khiếp ập tới, tất cả đều mất hết ý chí chiến đấu, binh khí lần lượt rời tay rơi xuống đất.
Xương Ý cưỡi Trùng Minh điểu chấp chới bay về phía Xương Phó, Xương Phó cũng loạng choạng chạy về phía y. Trong khoảnh khắc cuối cùng của sinh mạng, họ chỉ muốn được ở bên nhau.
Khí nóng bốc lên cuồn cuộn, mặt đất rung lắc dữ dội, cây cối gãy đổ, đất đá nứt vỡ, Trùng Minh điểu mỗi lúc một thêm kinh hãi, không chịu tuân theo Xương Ý điều khiển nữa. Xương Ý sốt ruột bèn bỏ luôn tọa kỵ nhảy xuống chạy bộ, vừa né tránh những khối đá rào rào rơi xuống, vừa băng qua mặt đất đang không ngừng nứt toạc ra, chạy về phía Xương Phó.
Chỉ một đoạn đường ngắn ngủi, vậy mà lúc này cơ hồ không cách nào vượt qua được.
Chợt mấy tiếng nổ rung trời chuyển đất vang lên, cả bầu trời chuyển thành màu đỏ tía, núi lửa bắt đầu phun trào, khói đen dày đặc cuộn lên như những con rồng khổng lồ, mặt đất biến thành lò lửa, dung nham đỏ rực ào ào trút xuống như nước lũ.
Giữa cảnh khói bụi cuồn cuộn, ánh lửa ngút trời, nghiêng trời lệch đất, cuối cùng Xương Ý và Xương Phó cũng quờ quạng siết chặt được tay đối phương.
Xương Phó nhoẻn cười hạnh phúc, ôm lấy Xương Ý, tựa vào lòng y.
Hai người ngoảnh đầu nhìn khói lửa ngút trời, dung nham tràn ngập khắp nơi, ánh lửa đỏ hồng, ánh sáng tím biếc, dung nham đỏ sẫm, cả đất trời bỗng trở nên tươi đẹp vô cùng.
“Trước khi lìa trần, được chiêm ngưỡng cảnh này, coi như cũng không uổng một đời.” Xương Ý ôm lấy thê tử, mỉm cười ngắm quang cảnh xung quanh.
Xương Phó vừa cười vừa trỏ dòng dung nham: “Chàng xem, bên kia có một con suối dung nham đỏ rực kìa!” “Nhìn kìa, mấy đám mây lớn kia đẹp quá, chàng bảo có giống đỗ quyên nở trên núi không?”
Trong khoảnh khắc này, có thể tực kề bên nhau, sống chết đối với họ đã chẳng còn gì quan trọng nữa.
Một thoáng sau, văng vẳng nghe thấy có âm thanh truyền lại.
Xương Ý giỏi âm luật nên rất mẫn cảm với âm thanh, y ngoảnh lại nhìn về phía thanh âm truyền đến rồi cúi đầu nhìn thê tử.
Xương Phó ngẩng đầu nhìn y: “Sao thế?”
Xương Ý cười: “Chẳng phải nàng vẫn trách ta không dám hôn nàng trước mặt mọi người ư?”
“Hở?”
Xương Ý cúi đầu hôn lên môi Xương Phó nồng nàn đắm đuối, mãnh liệt triền miên, Xương Phó bị hôn đến nỗi tim đập chân run, hai má đỏ hồng, thần trí choáng váng, đứng còn không vững, lòng ngập tràn hạnh phúc.
Xương Ý dịu giọng dặn dò: “Nàng gắng nuôi nấng Chuyên Húc, nhắn lại với tiểu muội, ta không trách Xi Vưu giết chết Đại ca nữa đâu.”
Xương Phó còn chưa kịp phản ứng, chợt thấy gáy đau buốt lên, trước mắt tối sầm, mất hết ý thức, ngất lịm trong lòng Xương Ý.
Xương Ý rút cây trúc tiêu giắt thắt lưng ra, vận linh lực thổi mấy tiếng.
A Tệ đang kêu lanh lảnh, sục sạo khắp nơi tìm A Hành, nghe tiếng tiêu lập tức bay đến. Xương Ý đặt Xương Phó lên lưng A Tệ, cởi áo ngoài, cố định nàng thật vững, đoạn bảo A Tệ: “Đi tìm A Hành đi, chỉ cần tìm thấy Xi Vưu, có lẽ các người có thể chạy thoát.”
A Tệ ngậm chặt vạt áo Xương Ý, tỏ ý rằng mình có thể chở cả Xương ý đi cùng, nhưng y chỉ lắc đầu, dùng lực đẩy A Tệ một cái, thét lên: “Mau đi đi!”
A Tệ hú lên một tiếng dài thê thiết rồi đập cánh bay lên, đi tìm A Hành.
Xương Ý đi lên phía sườn núi cao, ở đó, cả đám tướng sĩ Hiên Viên đông nghịt đang hướng về phía Hiên Viên quốc dập đầu bái lạy, y đã hứa với bọn họ, bất kể xảy ra chuyện gì, y cũng sẽ đứng ra chắn trước mặt bọn họ.
Những đám mây lửa càng tụ càng dày, chẳng bao lâu nữa núi lửa sẽ bùng nổ, nơi này sẽ ngập trong dung nham.
“Xi Vưu! Xi Vưu!” A Hành vừa gọi vừa chạy.
“A Hành! A Hành!” Xi Vưu vừa chạy vừa gọi.
Trước cảnh trời long đất lở, núi lửa phun trào, dù dốc hết linh lực, bọn họ cũng chỉ mong manh vô thường như cát bụi mà thôi. Hơn nữa họ đang ở ngay dưới miệng núi lửa, nếu còn chần chừ không đi, dẫu không bị dung nham cuốn phăng thì cũng chết vì lửa nóng.
Có điều, còn chưa tìm được người kia, họ nhất quyết chưa thể đi được.
A Hành chợt đứng lại, không chạy tìm nhớn nhác nữa, cứ chạy loạn lên thế này, biết đâu lại đang chạy ngược hướng với Xi Vưu cũng nên.
Nàng vội vã rạch lòng bàn tay, vẩy máu lên không trung, từng giọt máu lập tức biến thành từng đóa hoa đào, nở rực rỡ giữa bầu không, ánh lửa đỏ hồng cũng không át nổi sắc hoa đỏ thắm.
Xi Vưu trông thấy từng đóa từng đóa hoa đào nở rộ rồi lụi tàn, bật cười, “Dưới cội hoa đào, không gặp không về!”
Xuyên qua khói bụi, băng qua khe sâu.
Hắn trông thấy A Hành đang đứng giữa một trời hoa đào rực rỡ, mỗi lần nàng vung tay lên, lên thêm vô số đóa hoa nở rộ. Hắn vội dang tay ra, gọi lớn: “A Hành!”
Nghe tiếng gọi A Hành sáng mắt lên, nhoẻn cười tươi tắn, nhào vào lòng Xi Vưu. Lúc này, họ chẳng thể thốt lên bất cứ lời nào nữa, chỉ biết siết chặt lấy nhau.
A Hành run lẩy bẩy, nước mắt đẫm vai Xi Vưu.
Xi Vưu vuốt vuốt lưng nàng, dịu dàng an ủi: “Thôi mà, nàng đã tận lực rồi!”
Xi Vưu ôm lấy A Hành nhảy lên lưng Tiêu Dao, Họ vừa bay lên thì dung nham ào ạt tuôn xuống, phủ kín chỗ vừa đứng khi nãy, cả ngọn núi đều bốc cháy phừng phừng, nhiệt độ không khí khiến tóc tai hia người bắt đầu xoăn tít.
Xi Vưu lệnh cho Tiêu Dao bay đi tìm Xương Ý, nhưng khắp trời toàn những quả cầu lửa, khói đen, đất đá bay loạn xạ, Tiêu Dao chẳng dám bay nhanh, đành vửa thận trọng né tránh, vừa ngó quanh tìm kiếm.
Nghe thấy mấy tiếng kêu lanh lảnh vọng tới, A Hành vội bảo Tiêu Dao bay chậm lại.
Thấy A Tệ bay đến trước mặt, lại trông thấy Xương Phó đang hôn mê trên lưng nó, A Hành hiểu Xương Ý đã quyết hy sinh, bèn cuống quýt bảo Tiêu Dao: “Bay nhanh lên đi!” Tìm được Tứ ca, chắc phải đánh ngất y rồi cưỡng chế đưa đi.
Trông thấy Xương Ý đang đứng chắn trước mặt một đám người trên sườn núi xa xa, A Hành vội mừng rỡ gọi Tiêu Dao: “Ở kia ở kia, mau mau đến đó đi!”
“Tứ ca, Tứ ca!”
Nàng chưa dứt lời, thình lình miệng núi “đùng” một tiếng nổ tung, lửa bốc ngút trời, dung nham theo khói đen phụt ra.
Đứng trước thiên kiếp, tất cả sinh linh đều nhỏ nhoi như con sâu cái kiến, chỉ trong nháy mắt, hết thảy đã tan thành tro bụi, chẳng còn dấu vết. Tất cả mọi người, tất cả mọi thứ đều tan biến trong dung nham nóng rãy, chẳng còn sót lại một mảy may.
A Hành mở trừng mắt, há hốc miệng, cơ hồ không tin nổi tất cả những điều vừa chứng kiến.
Mây lửa càng lúc càng dày đặc, dần dần lan ra khắp mặt đất, nếu không lập tức rời khỏi đây, ắt sẽ nghẹt thở mà chết.
Nhưng Xi Vưu chẳng hề giục giã A Hành, chỉ lặng lẽ ôm lấy nàng.
A Hành thẫn thờ, cứ ngây ra nhìn chằm chặp nơi Tứ ca vừa biến mất, hồi lâu, trong họng mới phát ra mấy tiếng thổn thức tựa như khóc mà không phải khóc, nàng cúi xuống cởi tấm áo đang buộc chặt Xương Phó vào lưng A Tệ, ôm Tứ tẩu vào lòng, bảo Xi Vưu: “Mình đi thôi.”
Xi Vưu dùng mấy sợi dây leo quấn chặt lấy A Tệ rồi dặn Tiêu Dao mấy câu, Tiêu Dao liền quắp lấy dây leo, ngửa cổ hót vang, trong tiếng hót lanh lảnh, nó vỗ cánh bay vút lên như một cơn lốc, thẳng đến chín tầng trời, lập tức rời khỏi biển lửa nhanh như chớp.
Một giờ sau, Tiêu Dao thở hổn hển đỗ xuống Trạch Châu thành, vừa kéo vừa cõng nặng như vậy, dù là đại bàng chao liệng chín tầng trời cũng chịu không thấu.
Trên Trạch Châu thành lâu đông nghẹt người, ai nấy đều nhìn về phía Đông Nam, cười cười nói nói, vừa tò mò vừa thắc mắc, không hiểu tại sao núi lửa lại đột nhiên bùng nổ.
Vũ Sư nghi hoặc hỏi Xi Vưu: “Đó là địa bàn của Chúc Dung mà, chẳng phải hắn đã đầu hàng rồi ư?”
Xi Vưu lắc đầu: “Chúc Dung lấy thân mình làm trận nhãn, dẫn phát cho núi lửa bùng nổ, quyết tử cùng quân đội Hiên Viên.”
Tiếng cười nói lập tức ngưng bặt, tất cả mọi người đếu biến sắc, Si, thuộc hạ của Phong Bá khẽ nói: “Thật không ngờ, Hậu Thổ được người người kính trọng lại đầu hàng Hoàng Đế, trong khi Chúc Dung lại bị miệt thị là đê tiện tiểu nhân lại thà chết không hàng.”
Vũ Sư nhìn về phía Đông Nam, không nói nửa lời, chỉ lặng lẽ cởi chiếc mũ trên đầu ra. Thì ra những kẻ ti tiện hèn hạ cũng có tôn nghiêm của riêng mình, những kẻ bỉ ổi vô sỉ cũng có vinh dự của riêng mình!
Phong Bá, Si, Mị, Võng, Lượng… tất cả mọi người đều ngả mũ, trang nghiêm lặng lẽ từ biệt Chúc Dung.
A Hành ôm lấy Xương Phó, cưỡi lên lưng A Tệ, chuẩn bị lên đường.
Vừa nãy chỉ lo chạy trốn, A Hành lại cố ý che giấu nên Xi Vưu không phát hiện ra, giờ mới để ý thấy ngón út bàn tay trái nàng đã cụt tận gốc.
“Là kẻ nào gây ra?” Xi Vưu vừa xót xa vừa giận dữ.
“Tự ta.” A Hành bình thản đáp.
“Tại sao?” Xi Vưu nắm chặt tay nàng.
“Ta phải đi đây.” A Hành từ từ rút tay ra.
Xi Vưu định nói gì đó, nhưng chẳng thốt nổi nên lời. Hắn còn có thể nói gì đây? Xương Ý chết vì Chúc Dung, nhưng các huynh đệ thuộc hạ của hắn lại cung kính ngả mũ mặc niệm Chúc Dung ngay trên đầu thành.
Dạo mới gặp A Hành, hắn cứ ngỡ rằng chỉ cần mình đủ mạnh thì trên đời chẳng có chuyện gì không thể làm được cả, nhưng giờ đây, linh lực của hắn càng lúc càng mạnh lên, thuộc hạ dưới quyền cũng mỗi lúc một nhiều, hắn lại cảm thấy càng lúc càng bất lực.
Cũng như hiện giờ, dù linh lực của hắn có mạnh đến đâu cũng không thể nắm được bàn tay A Hành, đành nhẹ nhàng buông nàng ra.
A Hành vỗ nhẹ lên mình A Tệ, A Tệ liền cất cánh bay vút lên.
Biết không giữ được nhưng Xi Vưu vẫn không nhịn được mà đuổi theo bóng nàng, cứ thế chạy dọc theo tường thành, tựa hồ làm vậy có thể gần nàng hơn một chút. Tiếc rằng độ dài tường thành có hạn, cuối cùng hắn cũng chạy đến đầu bên kia thành lâu, chỉ có thể nhìn theo bóng nàng mỗi lúc một xa, rồi biến mất trong bóng chiều.
Ráng đỏ mây trời, ánh vàng lấp loáng, xán lạn huy hoàng, đẹp khôn tả xiết, nhưng trong mắt Xi Vưu chẳng khác nào dòng dung nham đỏ rực tuôn trào, hủy hoại tất cả.
Dung nham đỏ rực ấy, tựa như máu đỏ, chảy tràn khắp núi rừng, cũng chảy tràn khắp trái tim A Hành.
Quyển2 –Chương14: Hẹn thề sinh tử mãi bên nhau[1]
[1] Trích trong bài Kích cổ (Gióng trống) trong Kinh Thi (ND)
Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?
A Tệ kêu lên một tiếng, nhắc A Hành rằng đã đến Triêu Vân phong.
A Hành lòng như dao cắt, chẳng còn dũng khí nào bước vào Triêu Vân điện, nhưng tin Chúc Dung và Xương Ý cùng chết chẳng bao lâu sẽ truyền khắp đại hoang, nàng không muốn để kẻ khác thông báo tin này cho mẹ. Nếu phải báo, chi bằng để nàng chính miệng báo với bà.
Nàng ôm Xương Phó bước vào Triêu Vân điện đúng lúc Luy Tổ đang dạy Chuyên Húc đọc sách. Nghe tiếng bước chân, bà mỉm cười ngẩng lên, trông thấy bộ dạng A Hành, bà liền biến sắc.
Chuyên Húc chạy nhao đến, “Mẹ, mẹ con làm sao thế? Cha đâu? Sao cha không về?”
Luy Tổ dịu giọng dỗ Chuyên Húc: “Con ra ngoài chơi đi, để người lớn nói chuyện.”
A Hành quỳ xuống trước mặt mẹ, môi run lên bần bật mà không thốt nổi nên lời. Giờ đây, cuối cùng nàng cũng hiểu được càm giác tuyệt vọng và tự trách của Đại ca khi quỳ trước mặt mẹ năm ấy.
Luy Tổ tái mét mặt, ngồi lặng giây lát, đột nhiên bà đứng phắt dậy, ôn tồn nói: “Con đi rửa mặt thay áo trước đi, để ta chăm sóc Xương Phó.”
“Mẹ…”
Luy Tổ xua tay: “Rửa mặt thay áo sạch sẽ rồi từ từ nói.”
A Hành vội vã rửa mặt rồi tới gặp mẹ. Xương Phó đã được thay y phục, đang nằm trên giường thiêm thiếp ngủ. Luy Tổ ngồi bên giường hai tay cầm chiếc áo của Xương Ý, dịu dàng vuốt đi vuốt lại.
A Hành khẽ khàng bước vào, quỳ xuống bên gối bà.
Luy Tổ khẽ hỏi: “Xương Ý anh dũng lắm phải không? Nó không bỏ lại thuộc hạ mà chạy thoát một mình chứ?”
A Hành nghẹn ngào, nói chẳng nên lời, chỉ có thể gật đầu. Luy Tổ mỉm cười, “Giỏi lắm, giống như ông ngoại nó vậy!”
“Mẹ!” A Hành nắm lấy tay bà, “Nếu mẹ đau lòng thì cứ khóc đi!”
Luy Tổ xoa đầu A Hành, dung nhan khô héo, thân tình tiều tụy, chỉ có đôi mắt là sáng rỡ, dường như tất cả sức lực còn lại đều kết tinh trong mắt, “Con ở đây trông chừng Xương Phó, tính nó cương cường, cứng quá thì dễ gãy, để ta đi thăm Chuyên Húc. Ta không muốn nó nghe ngóng tin cha nó từ miệng người khác, cha nó đã hy sinh anh dũng, phải đường đường chính chính nói cho nó biết.”
Luy Tổ cẩn thận gấp manh áo của Xương Ý lại, đặt bên gối Xương Phó rồi loạng choạng bước ra ngoài, ra đến rừng dâu, bà kéo tay Chuyên Húc, “Bà nội có chuyện muốn nói với cháu.”
Một già một trẻ lững thững thả bộ trong rừng dâu. Bước chân Luy Tổ loạng choạng, lưng còng gập xuống, nhưng bà vẫn là chỗ dựa tinh thần của tất cả đám trẻ.
“Xương Ý!”
Xương Phó vừa tỉnh giấc liền kêu thét lên, giơ tay ra chụp, nhưng chỉ chụp vào khoảng không.
A Hành đang đứng bên cửa sổ nhìn về phía Luy Tổ và Chuyên Húc, lập tức ngoảnh lại: “Tẩu tẩu.”
Xương Phó nhìn quanh, nhận ra bọn họ đang ở trong Triêu Vân điện: “Còn Xương Ý? Xương Ý đâu rồi?”
A Hành chẳng biết đáp sao cho phải. Xương Phó chằm chằm nhìn A Hành, tựa hồ đang cầu khẩn nàng ban cho mình chút hy vọng, ánh mắt ấy như một lưỡi dao nhọn, chốc chốc lại đâm vào tim A Hành khiến nàng đau đến không thở nổi, cũng không cách nào né tránh, bởi càng né tránh lại càng đau.
“Tứ ca, Tứ ca…” A Hành lúng túng, nói không nên lời.
Trông thấy chiếc áo đặt bên gối, ánh sáng trong mắt Xương Phó vụt tắt lịm, nàng nắm lấy vai A Hành lắc như điên dại, gào lên: “ Sao muội lại bỏ chạy một mình? Sao muội không cứu y? Y là Tứ ca của muội, sao muội không cứu y…” A Hành như một phiến lá vàng quay cuồng trong gió lớn, hoàn toàn không thể tự chủ, chỉ cần mạnh thêm chút nữa, có lẽ sẽ bị cuồng phong nghiền nát.
Xương Phó lắc lắc A Hành, thân thể chợt nhũn ra, đột nhiên nàng gục đầu vào vai A Hành, khóc ngất, “Vì sao? Vì sao…” Vì sao? Rõ ràng họ đã thề phu thê một lòng, cùng sống cùng chết, vì sao y không giữ lời thề, bỏ lại nàng một mình?
Nháy mắt trước đây thôi, y còn ôm nàng, hôn nàng, khiến nàng chìm trong hạnh phúc ngọt ngào, vậy mà giờ y đã tan xương nát thịt, tất cả đều thành mây thành khói. Nàng không tin! Xương Ý chưa chết, nhất định chưa chết!
Tiếng khóc của Xương Phó dần biến thành tiếng gào nát gan xé ruột, như một con thú đang rên rĩ khóc than. A Hành cũng không nén nổi nữa, nước mắt tràn ra như vỡ đê, nhưng nàng không dám khóc thành tiếng, đành mím chặt môi, gắng hết sức ưỡn lưng thật thẳng, không cho phép mình gục xuống.
Xương Phó khóc đến tan lòng nát ruột, bi nộ công tâm, ngất lịm đi.
A Hành không dám thả lỏng bản thân mà thương tâm khóc lóc, vội lau khô nước mắt, chăm non cho Xương Phó.
Luy Tổ dắt tay Chuyên Húc bước vào, chỉ một chốc lát ngắn ngủi, vậy mà Chuyên Húc dường như đã đột ngột lớn bổng, gương mặt bé bỏng đanh lại, nước mắt thập thò trên mi nhưng nó vẫn quật cường nín nhịn, nhất quyết không khóc, kìm nén đến nỗi đỏ bừng cả mặt.
Chuyên Húc đứng bên giường chạm tay vào mặt Xương Phó, vẻ mặt rất nghiêm trọng.
Luy Tổ bảo A Hành: “Con kể lại đầu đuôi mọi chuyện đi.”
Thấy A Hành chần chừ nhìn Chuyên Húc, Luy Tổ nói: “Hiện giờ nó là nam đinh duy nhất trong nhà ta, bất kể nó hiểu được đến chừng nào, cũng phải để nó nghe!”
Nhận ra ý tứ của Luy Tổ, A Hành chợt táo mặt: “Đại ca, còn Đại ca nữa mà!”
Luy Tổ bình thản nói: “Các con tưởng ta không biết ư? Thanh Dương là do ta sinh ra, một tay ta nuôi nấng từ nhỏ đến lớn. Hành nhi, con có thể không nhận ra con gái con không? Đó là núm ruột của con, nó cau mày hay nhoẻn miệng con đều rõ như lòng bàn tay. Vậy mà con và Xương Ý lại dám lớn gan giấu trời qua biển, nghĩ ra kế sách này.”
A Hành vội giải thích: “Mẹ, con, con… không phải tại Tứ ca, là tại con.”
“Ta hiểu nỗi khổ của các con, các con sợ ta đau lòng, sợ ta không chịu nổi, có điều các con xem thường mẹ mình quá. Hiên Viên quốc có ngày nay cũng là do ta một tay tạo dựng, tuy hiện giờ ta chẳng thể ra trận nữa, nhưng không có nghĩa là ta đã hồ đồ.”
A Hành quỳ xuống bên gối Luy Tổ, Luy Tổ quay sang bảo Chuyên Húc: “Cháu nghe cho kỹ, chỗ nào không hiểu cũng đừng hỏi, chỉ cần nhớ kỹ là được.”
A Hành bắt đầu thuật lại đầu đuôi câu chuyện, từ khi nàng phát hiện ra sự việc có điểm dị thường, phái Liệt Dương đưa thư về Hiên Viên cầu cứu, mượn binh Cao Tân, bị Thiếu Hạo cự tuyệt, cho đến khi Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, dẫn cho núi lửa bùng nổ.
Luy Tổ từ đầu đến cuối không nói một lời, còn Xương Phó chẳng biết đã tỉnh lại tự lúc nào, cứ trừng trừng nhìn lên đỉnh màn, nghe A Hành kể chuyện.
Đột nhiên, Xương Phó lên tiếng hỏi: “Sao phụ vương không hề phát binh? Nếu chiến binh Thần tộc của chúng ta nhiều hơn nữa, chỉ cần có một vị Thần tộc đại tướng tinh thông trận pháp bày trận, dù Chúc Dung đem thân làm trận nhãn, chúng ta cũng không tới nỗi toàn quân bị diệt.”
A Hành nói: “Muội có thể lấy tính mạng ra bảo đảm, Liệt Dương tuyệt đối đáng tin, chiến dịch này hết sức quan trọng với Hiên Viên, nhất định phụ vương không muốn thua, chỉ cần ông nhận được tin, chắc chắn sẽ dốc toàn lực ngăn cản Chúc Dung, cách giải thích duy nhất chính là phụ vương không nhận được bức thư Liệt Dương đưa về.”
Kẻ nào dám chen ngang đoạt lấy thư tín gửi cho Hoàng Đế? Kẻ nào có thể lớn gan chừng ấy, lại có thể có năng lực ấy?
A Hành sực nghĩ ra, tức thì đau đớn trào lên cùng giận dữ, lạc giọng hỏi: “Đêm qua phụ vương nghỉ lại Chỉ Nguyệt điện ư?”
Luy Tổ đột ngột lảo đảo, ngã ngửa ra sau, A Hành vội đỡ lấy bà: “Mẹ, mẹ!”
Luy Tổ hơi tỉnh lại, liền quay sang nhìn Xương Phó khóc: “Xin lỗi con, là tại ta nuôi ong tay áo!”
Xương Phó nuốt lệ nói: “Mẹ, mẹ nói gì thế?”
Luy Tổ nước mắt vòng quanh: “Vì lỗi lầm thơi trẻ nên ta vẫn lấy làm áy náy với Đồng Ngư thị, thật không ngờ đã sai lại càng sai! Đáng lẽ ta phải nhận ra từ sớm, nếu đã phạm sai lầm, thà rằng bản thân bị trời phạt, cũng phải làm cho đến cùng, nếu năm xưa ta xuống tay tàn độc, giết phăng mẹ con Đồng Ngư thị đi, thì chẳng bao giờ có ngày này!”
Xương Phó gắng gượng bước xuống giường, quỳ xuống trước mặt Luy Tổ, khóc nức lên: “Mẹ, nếu mẹ còn tự trách bản thân nữa thì Xương Ý có chết cũng chẳng được yên lòng đâu.”
Luy Tổ ôm lấy Xương Phó và A Hành, khóc đến khàn giọng, A Hành và Xương Phó cũng lã chã nước mắt.
Chuyên Húc ngồi im một góc, nhìn mẹ, cô cô, và bà nội khóc nức nở, như hiểu mà lại không hiểu, chỉ đinh ninh nhớ lời dặn của bà, gắng nhớ lấy tất cả. Bà nội đã nói, hiện giờ cậu là nam tử hán duy nhất trong nhà, nhất định phải kiên cường.
Một cung nữ liêu xiêu chạy vào, “Vương hậu, cả đoàn người đang đến ngoài kia, họ đều mặc áo tang, chít khăn tang…”
Xem ra phụ vương đã nhận được tin nên phái người tới bẩm với mẫu hậu. A Hành nói: “Cứ nói chúng ta biết cả rồi, bảo bọn họ về đi.”
Cung nữ nọ luống cuống nuốt khan, lắp bắp thưa: “Không, không được đâu, cả Hoàng Đế cũng tới.”
Nhất thời, mọi người trong phòng đều lặng đi.
Luy Tổ căm giận quát: “Bảo ông ta cút về đi! Nói rằng ta không muốn gặp ông ta, đời này kiếp này không muốn trông thấy ông ta nữa!”
Thấy ả cung nữ kinh hãi há hốc miệng. A Hành liền đứng dậy kéo kéo tay áo ả, ý bảo ả theo mình ra ngoài, nào ngờ Xương Phó cũng đuổi theo: “Ta có lời muốn nói cùng phụ vương.”
A Hành và Xương Phó ra đến tiền điện, thấy Hoàng Đế toàn thân vận áo tang, vẻ mặt đau xót, vừa thấy A Hành liền hỏi ngay: “Mẫu hậu con thế nào rồi?”
A Hành đáp: “Mẫu hậu không khỏe lắm, đang nằm nghỉ.”
Hoàng Đế dợm bước: “Để ta vào xem.”
A Hành vội giơ tay cản ông lại, “Phụ vương, mẫu hậu không chịu được kích động.”
Hoàng Đế khựng lại, “Vậy… vậy để hôm khác.”
Đoạn ông quay ra bảo Xương Phó: “Hai trăm binh sĩ Thần tộc đều hy sinh, còn bốn ngàn chiến sĩ Nhược Thủy rút lui theo lệnh Hành nhi còn sống cả, ta đã phái người tiếp tục tìm kiếm, có lẽ còn có thể cứu thêm vài ba chiến sĩ Nhược Thủy nữa, nếu con có yêu cầu gì, cứ nói ra đi.”
Xương Phó vẻ mặt lạnh lùng, đang định lên tiếng thì bị A Hành cướp lời: “Phụ vương, ba ngày trước con đã sai Liệt Dương đem thư về bảo Chúc Dung định dẫn phát cho núi lửa mổ tung, xin người lập tức phái binh chi viện, hiện giờ Liệt Dương ở đâu không rõ, còn thư chẳng hay phụ vương có nhận được không?”
Hoàng Đế tâm niệm xoay chuyển như chớp, lập tức hiểu ngay mọi chuyện, giận đến tím mặt, nét mặt méo mó đi vì phẫn nộ, nhưng dần dà, ông lại khôi phục vẻ thản nhiên, “Chuyện này ta sẽ phái người tra xét.”
A Hành hoàn toàn mất hết hy vọng vào Hoàng Đế, nhất định ông sẽ dùng một phương pháp để trừng trị Di Bành đích đáng, nhưng đó không phải hình phạt mà nàng muốn.
Xương Phó quỳ xuống nói: “Phụ vương, tuy Xương Ý đã tan xương nát thịt, nhưng con muốn xin Người cử hành tang lễ long trọng cho chàng.”
Hoàng Đế đáp: “Ta đã định sắp xếp như thế rồi, con còn yêu cầu gì khác không?”
Xương Phó lắc đầu.
Hoàng Đế nói: “Vậy ta đi đây, nếu cần gì các con cứ phái người tới trực tiếp bẩm với ta.”
Vân Tang nấp ngoài điện thấy Hoàng Đế đã đi khỏi, mới dần theo Chu Du bước vào tiền điện. Tuy nàng đã được gả cho Thanh Dương nhưng tại Triêu Vân điện, nàng vẫn là người ngoài, bởi thế nàng chỉ một mực ru rú trong nhà, phàm việc gì cũng ra sức tránh né.
A Hành vấn an nàng, còn Xương Phó cứ ngồi ngây ra như phỗng, tựa hồ chẳng còn biết gì tới mọi chuyện xung quanh nữa.
Trước tình cảnh ấy, Vân Tang cũng xót xa vô hạn, nàng còn nhớ buổi hôn lễ mấy trăm năm trước, dưới bóng Nhược Mộc hoa đỏ thắm, Xương Phó cứng cỏi ranh mãnh, thông minh tinh quái nhường nào. Trong lòng nàng, Xương Ý và Xương Phó là đôi phu thê duy nhất khiến nàng ngưỡng mộ, khiến nàng tin rằng trên đời này vẫn tồn tại tình cảm vợ chồng son sắt, chỉ tiếc rằng trời cao quá đỗi nhỏ nhen, ghen ghét cảnh viên mãn, lại bắt bọn họ cách trở âm dương.
Vân Tang nói với A Hành: “Mấy ngày trước, ta nửa đêm mất ngủ bèn ra ngoài cho khuây khỏa, trông thấy dưới Hiên Viên sơn có ánh lửa bèn chạy đến xem, vừa khéo bắt gặp Di Bành dẫn theo mấy tên Yêu tộc vậy đánh một con Lang điểu, một tên trong số đó hình như thuộc Hồ tộc, nói cái gì muốn đoạt Phượng Hoàng nội đan của Lang điểu dâng lên cho Hồ vương trị thương. Ta nghĩ là Liệt Dương, bèn ra tay cứu nó, vốn định hôm nay muội về sẽ nói lại với muội, nhưng lúc đến đây tìm lại loáng thoáng nghe thấy tiếng khóc, ta thấy không tiện lắm bèn tránh đi, nào ngờ lại xảy ra chuyện lớn như vậy.”
A Hành vội hành lễ với nàng, cảm kích nói: “Đa tạ tỷ, hiện giờ Liệt Dương đâu rồi?”
Vân Tang đáp: “Ở đằng Hậu Thổ. Thương thế của Liệt Dương rất nặng, ta không giúp được nó, đành đưa đến chỗ Hậu Thổ, để Hậu Thổ trị thương cho nó.”
Vừa rồi chỉ mãi lo đến an nguy của Liệt Dương, không suy nghĩ được kỹ càng, mãi đến giờ A Hành mới phát hiện những lời Vân Tang nói có rất nhiều nghi vấn. Công lực của Liệt Dương cao hơn Vân Tang, kẻ mà Liệt Dương không đối phó nổi, nhất định Vân Tang cũng chẳng thể địch lại, cách giải thích duy nhất chính là lúc đó Hậu Thổ cũng ở đây, và kẻ cứu Liệt Dương là Hậu Thổ.
Vân Tang băng tuyết thông minh, thoạt nhìn vẻ mặt A Hành liền nhận ra ngay nàng đã đoán được sự tình, bèn thản nhiên thừa nhận, “Ta cũng biết là không giấu được muội, thực ra tối hôm đó ta ra ngoài gặp Hậu Thổ. Nghe nói Chúc Dung định đầu hàng, ta có phần nghi ngờ, bèn đi tìm Hậu Thổ gạn hỏi tình hình chiến trận, tiếc rằng khi bọn ta đến Liệt Dương đã hôn mê nên không hỏi được nó đến vì việc gì.”
Dù đến sớm thì sao chứ? Tuy Vân Tang đã gả cho Thanh Dương, nhưng đôi bên chỉ là lợi dụng lẫn nhau, dù nhận được tin từ sớm, chắc gì Vân Tang đã báo với Hoàng Đế. Thậm chí A Hành còn mừng thầm vì họ không biết, bằng không có lẽ Vân Tang sẽ nghĩ cách báo với Chúc Dung, đến chừng đó e rằng ngay cả bốn ngàn binh sĩ và Xương Phó cũng không sao thoát được.
Nghĩ đến đó, A Hành bỗng toát mồ hôi lạnh, sao bây giờ nàng lại thành ra thế này? Vân Tang và Hậu Thổ luôn thân thiết với nàng, thân là dị tộc bại trận, vậy mà họ vẫn mạo hiểm, bất chấp đắc tội Di Bành để cứu Liệt Dương, sao nàng có thể đa nghi như vậy? Nhưng nàng có thể không đa nghi ư? Nhưng dù có tốt đến mấy cũng chỉ là tư tình, đứng trước đại nghĩa, những kẻ sinh ra trong vương thất, lớn lên trong vương thất như bọn họ đều phải vứt bỏ tư tình để giữ trọn đại nghĩa.
Xương Phó đang ngồi ngây ra như phỗng đột nhiên đứng bật dậy, chạy vụt ra ngoài, A Hành vội kéo nàng lại: “Tứ tẩu, tẩu đi đâu đấy?”
“Muội không nghe thấy tiếng tiêu của Xương Ý à? Muội nghe mà xem.” Xương Phó ngưng thần lắng tai nghe, chợt cuống quýt: “Sao lại không nghe nữa rồi? Rõ ràng vừa nãy ta nghe thấy mà. Đại tẩu, A Hành, hai người có nghe thấy không?”
Vân Tang nước mắt lã chã, A Hành lòng đau như cắt, nhưng chẳng có cách nào khả dĩ khuyên giải Xương Phó, chỉ biết đặt hết hy vọng vào thời gian.
Đối với một số người, thời gian sẽ xóa nhòa tất cả, nhưng đối với Xương Phó, có lẽ thời gian chỉ đay đi đay lại nhắc nàng: Xương Ý đã không còn nữa!
Cũng như Viêm Đế từng nói với A Hành khi đứng trước mộ thê tử vậy, sinh mệnh đằng đẵng chỉ càng khiến nỗi đau dài ra đến vô chừng!
Hoàng Đế hạ lệnh toàn quốc để tang cho Xương Ý.
Hiên Viên quốc giờ đây đang hưng thịnh, các tộc các nước trên dại hoang đều phái sứ giả tới điếu tang, Thiếu Hạo là người thân, tuy không thể đích thân đến, nhưng cũng phái sứ giả đưa vương cơ Cửu Dao tới để tang cho bác.
Hoàng Đế cử hành tang lễ trọng thể cho Xương Ý trong Hiên Viên thành, A Hành không muốn Luy Tổ người đầu bạc tiễn kẻ đầu xanh nên ra sức khuyên bà đừng đi, cứ ở lại Triêu Vân điện.
Sau khi nghi thức hoàn tất, tới lúc an tang, Xương Phó đột ngột yêu cầu tất cả lui ra, chỉ có người Hiên Viên tộc ở lại.
Đợi quan tài đựng đầy những vật dụng Xương Ý từng sử dụng hạ xuống huyệt, Tông Bá đang định hạ lệnh lấp đất, bỗng Xương Phó từ đầu đến cuối vẫn làm thinh đột ngột lên tiếng: “Đợi đã!”
Mọi người đều ngạc nhiên đổ dồn ánh mắt về phía nàng. Xương Phó chăm chú nhìn quan tài Xương Ý một thoáng, rồi ngoảnh lại nghẹn giọng tuyên bố: “Hôm nay, ta ở đây đau đớn tiễn đưa Xương Ý, phu quân của ta. Ở Nhược Thủy, còn hơn sáu ngàn phụ nữ cũng đang khóc lóc tiễn đưa phu quân của họ như ta. Đối với Nhược Thủy tộc chúng ta, oanh liệt hy sinh trên sa trường là hành vi hết sức vinh quang! Nhưng chúng ta không thể chấp nhận được nếu người thân của mình bị người hãm hại mà chết, đó chính là xúc phạm vong linh! Là bất kính đối với người chết! Cái chết của người thân giống như móc mất trái tim chúng ta vậy, nhưng nếu họ chết vì bị người hãm hại, thì cũng giống như trái tim sau khi bị móc ra, lại bị đâm vào thuốc độc! Ngày nào chưa thể trả hận, ngày đó trái tim chúng ta còn bị ngâm trong thuốc độc!”
Nói rồi, Xương Phó trừng mắt nhìn Di Bành: “Hiên Viên Di Bành, ngươi có nghe thấy tiếng rít gào phẫn nộ của đám vong linh dưới đất, tiếng khóc than đau đớn của những phụ nữ Nhược Thủy tộc chăng?”
Di Bành hờ hững đáp: “Ta chẳng hiểu Tứ tẩu nói gì cả, xin Tứ tẩu nén đau thương, chấp nhận sự thật, đừng nói quàng nói xiên nữa.”
Hoàng Đế vội ra lệnh cho thị nữ: “Vương tử phi đau lòng quá độ, thần trí không tỉnh táo, các người còn không mau đỡ vương tử phi lui xuống.”
Đám thị nữ định kéo Xương Phó đi, nhưng các đại hán Nhược Thủy “soạt” một tiếng nhất tề rút đao ra, chắn trước mặt Xương Phó, sát khí đằng đằng.
Xương Phó cao giọng nói: “Vương cơ phát hiện ra Chúc Dung đang bày trận dẫn phát cho núi lửa nổ tung, bèn phái người đưa thư cho Hoàng Đế, thỉnh cầu ngài phái thần tướng tới phá trận, trong lúc đó, ta và Xương Ý đã phải trăm phương ngàn kế lần lữa với Chúc Dung kéo dài đến chập tối. Nếu viện binh đến kịp thì đâu có tang lễ hôm nay. Nhưng thư của vương cơ giữa đường đã bị kẻ khác đoạt mất, kẻ đó chính là hắn, Cửu vương tử của Hiên Viên!” Xương Phó chỉ thẳng vào Di Bành, tất cả mọi người đều kinh hoàng nhìn theo tay nàng.
Xương Phó chầm chậm quét mắt qua tất cả người Hiên Viên tộc, ánh mắt lạnh lùng, vẻ mặt đanh lại, khiến Hoàng Đế nhất thời cũng cứng họng, nói không nên lời.
Xương Phó lại nói: “Ta sau khi cha ta quỳ xuống dưới chân Hoàng Đế, hai tay dâng Nhược Mộc hoa cổ xưa nhất lên ngài, chấp nhận quy thuận Hiên Viên quốc, chúng ta đã trở thành con dân Hiên Viên, cũng chính là con dân của Hiên Viên Cửu vương tử, nhưng hắn lại vì thù hận cá nhân mà phản bội con dân của mình. Thân là tộc trưởng Nhược Thủy, vì vong linh của sáu ngàn tộc dân, vì nỗi đau của sáu ngàn nữ tử, ta không thể tha thứ cho hắn được, nếu tha thứ cho hắn, ta còn mặt mũi nào trở về Nhược Thủy nữa! Thân là thê tử của Xương Ý, hắn giết phu quân ta, ta càng không thể tha thứ cho hắn!” Vừa nói, Xương Phó vừa rút phắt chủy thủ giấu sẵn trong tay áo, phi thân vọt lên, dốc toàn lực, đâm thẳng về phía Di Bành. Thần khí do Thiếu Hạo rèn ra lập tức phát huy uy lực đáng sợ của mình, nhân khí hợp nhất, khí thế như cầu vồng, không gì ngăn cản được.
Di Bành đã quen nấp trong bóng tối ném đá giấu tay, đâu có ngờ Xương Phó lại dám ra tay giết mình ngay trước mặt mọi người, vội cuống quýt lùi lại, hấp tấp bày kết giới, nhưng Xương Phó đã có dự định sẵn, hắn làm sao cản nổi một đòn dốc hết toàn lực bất chấp sinh tử của nàng. Xương Phó thế như chẻ tre lao tới, tất cả chướng ngại đều bị nàng phá tan tành.
Di Bành chỉ trông thấy một vầng sáng lao tới như tên bắn, càng lúc càng gần, càng gần càng chói lọi, có tránh cũng không sao tránh nổi, hồng quang bùng nổ ngay trước mắt hắn, nhắm thẳng vào tim hắn, con ngươi hắn chợt co rút, chẳng cách nào tránh thoát, hắn đành tuyệt vọng nhắm nghiền mắt lại.
Cả thế giới tựa hồ đều tan biến, bên tai chỉ còn sự im lặng chết chóc.
Di Bành cứ ngỡ rằng tử vong sẽ rất đau đớn, nhưng lạ thay, hắn chẳng hề thấy cảm giác đau đớn khi trái tim bị đam thủng. Hắn bất giác đưa tay sờ lên ngực, tiếc rằng chẳng sờ thấy gì cả.
Thực ra Di Bành cảm thấy lâu thật lâu, nhưng Xương Phó ra tay thần tốc, một đòn sấm sét chỉ diễn ra trong một chớp mắt ngắn ngủi. Bấy giờ mới nghe tiếng Hoàng Đế quát thị vệ, Di Bành chợt mở bừng mắt ra, còn chưa kịp nhìn rõ tình hình đã thấy một thân hình mềm nhũn ngả vào lòng, theo phản xạ, hắn vội đón lấy, ra là mẹ hắn, máu phun ra từ ngực bà ướt đẫm cả hai tay hắn.
Xương Phó không ngờ Đồng Ngư thị lại nhào tới, lấy thân mình đón một đòn chí mạng của nàng, bây giờ dù muốn giết Di Bành cũng đã muộn, đám thị vệ đang xúm quanh hắn bảo vệ rồi.
Từng đóa hoa máu trả giá bằng sinh mệnh đỏ đến chói chang, thắm tươi rực rỡ, nhưng trong mắt Di Bành, thế giới giờ đây chỉ còn hai màu đen trắng, thê lương tuyệt vọng.
“Mẹ, mẹ!” Di Bành gào lên thê thiết.
Hắn ôm chầm lấy mẹ, ra sức ấn lên vết thương toan cầm máu, nhưng chỉ cảm thấy thân thể mẹ lạnh dần đi.
Mẹ đã tắt thở, nhưng bà vẫn mỉm cười, chủy thủ cắm vào tim nhất định rất đau đớn, nhưng biết được con mình không bị tổn thương, dù có phải chịu đau đớn gấp nghìn lần, bà cũng cam lòng.
“Mẹ!” Di Bành gào lên thê thảm như sói hú.
Rất đông thị vệ xúm lại, dường như định giúp hắn, nhưng hắn phẫn nộ đẩy bọn chúng ra.
Cút, cút ra đi!
Hoàng Đế chạy lại, run run định bế Đồng Ngư thị lên, nhưng bị Di Bành một chưởng đẩy bật ra: “Không được chạm vào mẹ ta! Ông cũng cút ra! Ông là đồ bạc bẽo, quân vong ân phụ nghĩa, ông không xứng với mẹ ta!”
Mấy ngàn năm trước, vì hắn, mẹ đã quỳ xuống chân Hoàng Đế khóc lóc van xin, vậy mà ông ta còn quát mắng bà, nói cái gì chút tình xưa còn sót lại đã bị sự điên cuồng và ác độc của bà làm tiêu tan hết, rồi mặc cho mẹ nắm lấy vạt áo ông ta khóc lóc, Hoàng Đế lạnh lùng đá văng mẹ ra, xông xông bỏ đi.
Di Bành ôm lấy Đồng Ngư thị, vừa khóc vừa gọi như điên cuồng, “Mẹ ơi, mẹ tỉnh lại đi, mẹ còn chưa chứng kiến mụ đàn bà trong Triêu vân điện kia chết kia mà, chẳng phải mẹ nói sẽ không tha cho bà ta ư? Mẹ mở mắt ra đi, con nhất định sẽ giúp mẹ giết bọn chúng, giết sạch bọn chúng, không chừa một mống, con nhất định sẽ báo thù cho hai huynh…”
Nói rồi, hắn bế thi thể Đồng Ngư thị, loạng choạng chạy vào rừng.
Không ai ngờ ngay trong tang lễ lại xảy ra biến cố thế này, còn liên quan cả tới bí mật của vương thất, mọi người nhất loạt quỳ xuống, lòng nơm nớp lo âu, đến thở cũng không dám thở mạnh.
Hoàng Đế sầm mặt ra lệnh: “Giam tất cả người Nhược Thủy tộc lại, nhốt Xương Phó vào thiên lao, giao cho Thu quan ti khấu đích thân thẩm vấn, xử trí theo luật.”
Xương Phó ngoảnh lại bảo đám tùy tùng: “Bỏ binh khí xuống, không được phản kháng.”
Nói đoạn, nàng quay sang bế Chuyên Húc lên, thì thầm nói: “Con ngoan, mẹ rất muốn chứng kiến con trưởng thành, nhưng không được nữa rồi, mẹ nhớ cha lắm. Có lẽ con sẽ giận mẹ, nhưng đến một ngày nào đó, khi con gặp được cô gái con yêu thương, hẹn thề sống chết cùng cô ấy, con sẽ hiểu cho mẹ.” Nàng rút Nhược Mộc hoa gài bên mai tóc, đặt vào tay Chuyên Húc: “Khi nào con gặp cô gái ấy, nhớ tặng bông hoa này cho cô ấy, dắt cô ấy tới trước mộ cha mẹ nhé.”
Chuyên Húc cũng có dự cảm không lành, liền khóc ré lên:, “Mẹ, mẹ ơi!”
Xương Phó ôm chặt lấy con trai, vừa hôn vừa dặn dò: “Về sau con phải nghe lời cô cô, cô cô sẽ chăm lo cho con, mẹ đi tìm cha con đây. Dù con có hận mẹ, cũng nhất định phải trưởng thành, lấy vợ sinh con, sinh một bầy cháu nhỏ nhé, cha con chắc chắn sẽ vui lắm đấy…”
A Hành biết Hoàng Đế nhất định không nhân nhượng cho hành vi hành thích ngay trước mặt mọi người của Xương Phó, không chỉ vì Xương Phó đã giết vương phi của Hiên Viên quốc, mà còn bởi nếu bỏ qua cho Xương Phó một lần, thì những người khác cũng được đà, chẳng coi vương pháp ra gì, tùy ý hành thích, quốc gia sẽ loạn.
Hiện giờ trước hết phải tuân lệnh, ngoan ngoãn vào ngục trước đã, sau đó sẽ tính kế hóa giải, xem ra Xương Phó cũng hiểu điều này, nên mới ra lệnh cho tất cả thị vệ của mình lập tức bỏ binh khí xuống.
A Hành vừa thở phào nhẹ nhõm, chợt thấy Xương Phó bế Chuyên Húc lên, thì thầm dặn dò, không hiểu dặn điều gì nhưng nhìn có vẻ vô cùng lưu luyến Chuyên Húc, ánh mắt lại không rời huyệt mộ của Xương Ý, vừa cười vừa khóc, khi cười thì rạng ngời hạnh phúc, khi khóc lại bi ai thảm thiết. A Hành bất giác lạnh toát người, lập tức chạy đến, “Tứ tẩu, nhất định không được làm chuyện dại dột!” Nói rồi nàng với tay ra, toan kéo Xương Phó lại.
Xương Phó đặt Chuyên Húc vào tay A Hành đang đưa tới, “Tiểu muội, xin lỗi, phải nhờ muội lo liệu mọi chuyện rồi, nhớ chăm sóc Chuyên Húc giùm ta nhé.”
Thấy Chuyên Húc được đưa đến tay, A Hành vội ẵm lấy nó theo phản xạ, những ngón tay lạnh buốt của Xương Phó liền lướt qua kẽ tay nàng, “Tứ ca muội nhờ ta nhắn lại rằng, chàng không trách Xi Vưu nữa đâu.”
A Hành thoáng ngẩn người, chỉ trong chớp mắt, Xương Phó đã xoay tay lại cắm phập thanh chủy thủ vào ngực mình.
Đám thị vệ đang chạy tới bắt giữ Xương Phó thất thanh la lên, ngây người ra không hiểu mô tê gì cả.
A Hành há hốc miệng, cổ họng nghẹn ngào, ra sức ấn đầu Chuyên Húc vào lòng mình, không để cậu trông thấy, thân hình nàng run lên bần bật, khiến Chuyên Húc cũng run bắn lên theo.
Chuyên Húc khóc ré lên gọi mẹ, đột nhiên cắn mạnh vào tay A Hành, thừa dịp quay phắt lại, trông thấy trên ngực mẹ cậu cắm một thanh chủy thủ, thân mình loạng choạng tiến về phía huyệt mộ của cha. Y phục mẹ cậu nhuộm đầy máu tươi, đỏ đến chói mắt, hệt như tấm áo cưới đỏ rực mà cậu trông thấy trong hôn lễ của Đại bá vậy.
Xương Phó giẫm lên vùng máu lênh láng, từng bước, từng bước, cuối cùng cũng bước đến bên huyệt mộ của Xương Ý. Nàng chăm chú nhìn A Hành rồi từ từ rút chủy thủ ra, tựa hồ định trao lại cho A Hành, nhưng đã sức tàn lực kiệt, cánh tay rũ xuống, chủy thủ cũng theo tay rơi xuống đất, keng một tiếng rất khẽ, lại chấn động tất cả mọi người ở đó.
A Hành nước mắt như mưa, gật gật đầu, “Muội hiểu mà, Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi đi! Nhắn lại với Tứ ca, muội nhất định không để bất cứ kẻ nào làm tổn hại đến Chuyên Húc đâu!”
Xương Phó nhoẻn cười rạng rỡ, buông mình rơi xuống mộ huyệt tối đen sâu hút.
Chuyên Húc rào lên thảm thiết: “Mẹ, mẹ ơi, đừng bỏ con!” Đột nhiên, chẳng hiểu cậu lấy đâu ra sức mạnh, đẩy phắt A Hành ra, lảo đảo chạy về phía mộ huyệt, “Mẹ, cha, đừng bỏ con mà!”
Thật lạ lùng, có lẽ vì linh lực của Xương Phó tản mác, làm biến đổi cả cảnh vật xung quanh, huyệt mộ đột nhiên tự động khép lại.
Mặt đất bốn bề lập tức gồ lên rồi từ từ hợp lại, tạo thành một nấm đất như bát úp, cản Chuyên Húc lại bên ngoài.
Phía trên huyệt mộ, từ những vết máu loang lồ Xương Phó để lại, chợt mọc ra vô vàn đóa hoa nhỏ không tên. Cứ hai đóa chung một cánh, cùng một cuống, nương tựa vào nhau, rỡ ràng đón gió, chẳng mấy chốc, cả nấm mồ đã phủ kiến những đóa hoa đỏ thắm. Gió thổi qua, trăm ngàn đóa hoa đung đưa trước gió, dường như loáng thoáng nghe thấy tiếng cười rộn rã đâu đây.
Tất cả mọi người đều trố mắt nhìn cảnh tượng trước mặt, không thốt nổi một lời, chỉ mình Chuyên Húc vẫn ra sức đấm vào nấm mộ, khóc lóc gọi: “Mẹ ơi, mẹ ơi, mẹ ơi…”
A Hành nhặt thanh chủy thủ đẫm máu Xương Phó lên, quỳ xuống trước mộ Tứ ca, Tứ tẩu, gương mặt tái nhợt chết lặng, như một pho tượng vô hồn.
Hoàng Đế ngồi lặng trong Chỉ Nguyệt điện, nét mặt tiều tụy mệt mỏi, liên tiếp cử hành ba tang lễ, con trai, con dâu, rồi đến vợ, dẫu là người kiên cường như ông cũng không sao chịu nổi.
Dường như vì mọi sự xảy ra quá nhanh, mãi đến giờ ông vẫn còn ngỡ ngàng, chưa hề tin đó là sự thật. Đồng Ngư đi thật rồi sao?
Từ lần đầu gặp gỡ khi còn nhỏ tuổi vô tư, đến sau này nghi kỵ lẫn nhau, tuy ngày ngày Đồng Ngư đều kề cận bên giường, nhưng ông lại thấy nàng mỗi lúc một xa lạ, không còn là cô bé nấp trong ruộng cao lương ném quả lê vào ông ngày nào nữa. Mấy ngàn năm yêu hận dây dưa, mỗi lần ông nhẫn nhịn, chỉ là vì nhớ đến cái đêm trăng sáng sao thưa ấy, trên đỉnh núi mọc đầy cỏ dại, ông từ một chàng trai biến thành một người đàn ông, Đồng Ngư cũng từ một cô bé biến thành một người phụ nữ, nàng đã rúc vào lòng ông run lên, chẳng rõ là lạnh vì gió núi, hay là vì căng thẳng sợ hãi. Ông đã hứa với Đồng Ngư: “Ta sẽ cất căn nhà thật lớn để cưới nàng về.” Đồng Ngư phì một tiếng: “Ai thèm? Mông Đàm mấy ngày trước đến cầu hôn với cha ta cũng có căn nhà lớn lắm rồi.” Ông cười trỏ vầng trăng trên trời: “Căn nhà ta cất có thể trông thấy ánh trăng đẹp nhất trần đời, giống như đêm nay vậy, hai ta có thể ngày ngày ngắm trăng cùng nhau.” Đồng Ngư vùi mặt vào ngực ông cười thầm, thân mình không run lên nữa, chỉ nghe tiếng thì thào khe khẽ: “Ta không muốn ngắm trăng, chỉ muốn ngắm tên ngốc trỏ vầng trăng kia thôi!”
Năm ấy, hai người bọn họ bất kể thế nào cũng không ngờ được, mấy ngàn năm sau, ngay giữa Chỉ Nguyệt điện mà ông xây dựng cho Đồng Ngư, ông lại giận dữ tuyên bố cắt đứt tình xưa, còn nói nếu Đồng Ngư dám động vào người trên Triêu Vân điện nữa, ông sẽ khiến nàng tan thành tro bụi. Rồi mặc cho nàng khóc lóc thảm thiết, ông đá văng nàng ra, quyết định dứt khoát rời bỏ, mà đâu có ngờ, nàng còn dứt khoát rời bỏ hơn ông.
Hoàng Đế đẩy cửa ra, liền trông thấy vầng trăng khuyết cong cong như móc câu ngoài cửa sổ. Ông tựa người vào sập, lặng lẽ ngắm trăng.
Tòa cung điện này dựng nên vì Đồng Ngư, nhưng cả ngàn năm nay, ông chưa hề cùng Đồng Ngư sánh vai ngắm nhìn trăng sáng, ông đã không còn là ông năm ấy, nàng cũng không còn là nàng khi xưa, sánh vai cùng ngồi còn ý nghĩa gì nữa chứ. Có điều, chẳng rõ tại sao, sau một ngày mệt mỏi, ông luôn thích nằm dài ở đây, ngắm nhìn trăng sáng, dưới ánh trăng mờ ảo ấy, có ông một thời trẻ trung sôi nổi, còn có cả một thiếu nữ có thể làm chứng cho thời niên thiếu sôi nổi của ông. Có điều thời gian đằng đẵng xóa nhòa tất cả, ông đã chẳng còn phân rõ được người con gái mình nhung nhớ là ai, là cô gái yểu điệu run lên trong lòng ông, hay nàng thiếu nữ ngạo nghễ băng qua ánh trăng vằng vặc bước đến trước mặt ông, hay đều không phải?
Hoàng Đế tựa mình vào gối ngọc, tựa ngủ mà không phải ngủ, chẳng biết bao lâu sau, có thầy thuốc tới cầu kiến.
“Muộn thế này, thần vốn không nên tới quấy rầy bệ hạ nghỉ ngơi, nhưng bệ hạ đã căn dặn phải lập tức bẩm báo bệnh tình của vương hậu nương nương, bất kể lúc nào.”
Hoàng Đế ôn hòa mà uy nghiêm nói: “Ngươi làm đúng lắm.”
“Nghe các cung nữ hầu hạ vương hậu kể, vừa nghe tin Tứ vương tử phi tự vẫn, vương hậu nương nương tức thì ngất lịm, bọn họ vội tuyên triệu thần, khi thần đến nơi thì vương hậu đã tỉnh lại, mặc cho thần khuyên can đủ mọi cách, nương nương vẫn bắt đám cung nữ kể lại tường tận sự tình. Nghe nói Đồng Ngư nương nương vì cứu Cửu điện hạ mà đem thân đỡ đao, chết ngay tại chỗ, nương nương lại kích động cười rộ lên, cười mãi cười mãi rồi bắt đầu òa lên khóc, vừa khóc vừa ho rũ rượi, ho ra toàn là máu. Các cung nữ quỳ đầy dưới đất, kẻ van vỉ người khuyên nhủ, nhưng vương hậu vẫn kích động, không sao bình tĩnh lại được, cũng không chịu cho thần xem bệnh, may sao bấy giờ vương cơ về kịp, dẫn theo Chuyên Húc vương tử và Cửu Dao vương cơ quỳ trước giường vương hậu, dập đầu lia lịa, bấy giờ vương hậu mới chịu để cho thần chẩn mạch.”
“Bệnh tình bà ấy thế nào?”
“Uất khí tích tụ trong ngực, nhiều năm không tan, tâm mạch đã thương tổn, từ sau khi Chuyên Húc tiểu vương tử ra đời, bệnh tình vương hậu đã có biến chuyển, có điều mấy ngày nay liên tiếp bị kích động, cơn bệnh không còn khống chết được nữa, linh khí rối loạn hoàn toàn, hiện giờ thần cũng không dám dùng thuốc, chỉ dám kê vài vị an thần thôi.”
“Rốt cuộc là sao?”
Thầy thuốc thoáng do dự, đoạn dập đầu binh binh, khẽ đáp: “Trầm kha khó chữa, không cách nào cứu vãn, sớm muộn ắt sẽ… Thần không dám thưa thật với vương hậu, chỉ nói là nhất thời đau buồn quá độ, yên lòng tĩnh dưỡng sẽ khỏe.”
Hoàng Đế kinh ngạc sững sờ, bất giác lại đưa mắt nhìn ra cửa sổ.
Thầy thuốc căng thẳng đợi hồi lâu, chẳng thấy Hoàng Đế ừ hữ gì. Y len lén nghiêng đầu nhìn trộm Hoàng Đế, từ góc độ của y, chẳng thể thấy được nét mặt Hoàng Đế, chỉ thấy rõ mồn một khung cảnh ngoài song. Vành trăng cong vút như một chiếc móc câu ngọc ngà nghiêng nghiêng treo dưới song cửa.
Hoàng Đế vẫn không lên tiếng, thầy thuốc cũng chẳng dám ho he.
Mãi đến khi đầu gối gã thầy thuốc đã tê dại cả đi, Hoàng Đế mới đột ngột định thần lại, trông thấy y, Hoàng Đế ngạc nhiên hỏi: “Sao ngươi còn ở đây?”
Thầy thuốc vội dập đầu: “Thần cáo lui.” Đoạn tức tốc lùi ra khỏi đại điện.
Trăng lên quá đỉnh đầu, mọi âm thanh đều bặt tiếng.
Chu Du ngồi trông Luy Tổ, cứ tựa người bên sập gật gà gật gù. Vân Tang đã dắt Chuyên Húc và Cửu Dao đi nghỉ. A Hành còn đang tất bật giã thuốc, nhưng giã xong lại bỏ đi, đổ xong lại giã, ánh mắt đầy đau khổ và lo lắng.
Thiếu Hạo nhân đêm tối đã chạy đến Triêu Vân phong, thoạt tiên y lặng lẽ tới thăm Luy Tổ, rồi sau đó, được Chu Du chỉ dẫn, lại ta sau đình viện tìm A Hành. Y khe khẽ gọi nàng nhưng A Hành một mực làm ngơ, đi lướt qua y, như không nghe thấy.
Thiếu Hạo đành ngồi xuống thềm đá, lặng lẽ nhìn A Hành đi qua đi lại.
Chu Du nói thầy thuốc bảo không có gì đáng ngại, nhưng y vốn rõ hơn ai hết, thầy thuốc trong cung đình hễ gặp bệnh nặng thường sẽ không dám nói thật. Nhìn tình trạng Luy Tổ, lại nhìn dáng vẻ A Hành, y hiểu Luy Tổ e rằng chỉ còn sớm tối.
Như ý nguyện của y, cả Hiên Viên và Thần Nông đều tổn thất không nhỏ, nhưng y chẳng hề thấy vui vẻ chút nào.
Mỗi lần A Hành chìa tay ra cầm nắm gì đó, y lại trông thấy bàn tay mất đi ngón út của nàng, trái tim bất giác nhói lên, như thể ngón tay bị cắt đứt là của y vậy.
Vô vàn đom đóm múa lượn trên bãi cỏ, tỏa sáng lập lòe, tựa như vô vàn vì sao nho nhỏ lung linh, y tiện tay bắt lấy một con, nắm trong lòng bàn tay như một ngọn đèn nhỏ xíu, dưới ánh trăng mờ mờ, rất nhiều chuyện xưa chợt hiện ra.
Y nhớ lần đầu tiên gặp Xương Ý, Xương Ý còn ngượng ngập nấp sau lưng Thanh Dương, ngọng nghịu gọi “Thiếu Hạo ca ca”; nhớ lúc y, Thanh Dương và Vân Trạch uống rượu, Xương Ý đều ngoan ngoãn ngồi một bên, cặp mắt sáng rực chăm chú nhìn bọn họ; nhớ hồi nhỏ Xương Ý cầm thanh kiếm, y lại cầm tay Xương Ý, dạy Xương Ý chiêu kiếm đầu tiên, trong khi Thanh Dương đứng bên cạnh vỗ tay cổ vũ, Xương Ý cũng cười nói “Cám ơn Thiếu Hạo ca ca”; nhớ sau khi Vân Trạch qua đời, Thanh Dương bị giam ở Lưu Sa, Xương Ý cuống quýt chạy tới tìm y, khóc lóc, “Thiếu Hạo ca ca, huynh mau tới thăm Đại ca đi, Đại ca sắp chết rồi.”
Y cũng nhớ lần đầu tiên gặp A Hành, khắp người nàng toàn là máu, nằm lịm trên tế đài. Lúc bế nàng lên, lòng y chợt rung lên một cảm giác vi diệu, thiếu nữ này là tân nương của y đấy ư? Đột nhiên, y bỗng lạnh người vì sợ, suýt nữa y đã đến muộn một bước rồi.
Từ Ngọc sơn về đến Triêu Vân phong, A Hành cùng y trò chuyện thâu đêm dưới bầu trời đầy sao sáng, tuy nàng cố làm bộ tự nhiên, nhưng cứ nhấp một ngụm rượu, nàng lại đỏ bừng mặt. Có lẽ biết được vẻ thẹn thùng kia là do mình, nên y chẳng dám nhìn lâu.
Trong Thừa Hoa điện, y cùng nàng nắm tay du ngoạn, gảy đàn thưởng nhạc, trồng cây ngắm hoa, ủ rượu chuốc chén, vốn chỉ để che mắt người đời. Nhưng tiếng đàn ấy vì có nàng thưởng thức, nên mới du dương thánh thót, hoa trong vườn vì có nàng nắm tay cùng ngắm nên mới diễm lệ vô song, rượu ngon y ủ vì có nàng cùng uống cùng say nên mới đượm nồng thơm ngát. Nàng cười, nàng cau mày, nhất cử nhất động của nàng đều tươi tắn sinh động, biến cả tòa cung điện vắng lạnh mênh mông thành một ngôi nhà, y vì nàng mà vui vẻ, vì nàng mà tươi cười, tất cả đều là chân thành, quãng thời gian sớm tối bên nhau đó, tuyệt không giả dối.
Dưới Ngu uyên, trong bóng đêm tăm tối tưởng chừng nuốt trọn được tất cả, y nhắm mắt chờ chết, vậy mà A Hành đã đi rồi còn quay lại vì y, xưa nay nàng chẳng thề hẹn gì với y, vậy mà nàng vẫn không lìa bỏ. Lần ấy, tuy y ở trong bóng tối nhưng lại cảm nhận được ánh sáng, còn lần này, y đang nắm lấy ánh sáng, vậy mà chỉ cảm thấy đêm tối mịt mùng.
“A Hành!”
Y nắm lấy gấu quần xanh biếc lướt qua bên mình, định giải thích, định cứu vãn, nhưng chính y cũng chẳng biết phải nói gì. Giải thích rằng y không hề muốn Xương Ý chết ư, hay phân bua rằng y không ngờ Xương Ý lại cố chấp đến vậy, rõ ràng đã nhận được tin, có thể đi trước nhưng lại không chịu sống nhục, càng không ngờ Xương Phó lại cương liệt đến thế, quyết không sống một mình.
“Buông ra!”
A Hành ra sức giật gấu quần ra, Thiếu Hạo không nói một lời, nhưng bất kể thế nào cũng không chịu buông.
A Hành rút phắt chủy thủ ra, đó chính là thanh chủy thủ y và nàng cùng rèn làm quà kết hôn cho Xương Ý và Xương Phó, cũng là thanh chủy thủ hôm nay Xương Phó dùng để tự vẫn, trên chủy thủ vẫn còn vệt máu. Thiếu Hạo run bắn lên, vật còn đây mà người đã mất, lời chúc phúc năm ấy y đích thân rèn lên, giờ đây, chỉ còn như một lời châm chọc.
A Hành nắm chủy thủ bằng bàn tay chỉ còn bốn ngón, chủy thủ lướt qua chiếc quần, nửa ống quần lập tức bị cắt lìa. Trong nháy mắt, bóng nàng đã xa tít.
Thiếu Hạo nắm lấy nửa ống quần, bất lực thõng tay xuống.
Từ nay về sau, ân đoạn nghĩa tuyệt!
Tất cả chẳng còn cách nào cứu vãn nữa!
Thanh Dương, Vân Trạch, Xương Ý, Xương Phó, từng người lần lượt ra đi mãi mãi, A Hành cũng kiên quyết rời bỏ y!
Trong rừng dâu, Xi Vưu đang đứng tực vào một thân cây, lặng lẽ nhìn Thiếu Hạo và A Hành.
Biết được hôm nay là ngày đưa tang Xương Ý, hắn không yên tâm về A Hành nên định tới xem thử, nào ngờ lại nghe nói Xương Phó tự vẫn. Hắn vốn không định lên Triêu Vân phong, không phải vì sợ, mà e sự xuất hiện của mình sẽ làm A Hành đau khổ, giờ đây những đau khổ mà nàng phải gánh chịu đã quá nhiều, hắn chỉ muốn xác nhận rằng nàng bình an, rồi sẽ âm thầm quay về.
Nhưng nàng chẳng hề bình an, Xi Vưu cũng chẳng đành lòng bỏ đi, đành ẩn mình giữa rừng dâu, nấp trong bóng tối bầu bạn với nàng. Nhìn đám thầy thuốc lũ lượt ra vào Triêu Vân điện, tuy không nghe được thầy thuốc nói gì, nhưng nhìn dáng vẻ A Hành, hắn cũng có thể đoán được, bệnh tình Luy Tổ nhất định không nhẹ.
Cỏ dại mọc đầy dưới nền đất rải đá xanh, không ai cắt xén, lại thêm sương đêm ướt đẫm, A Hành giẫm lên đám cỏ ướt sũng, liền trượt chân ngã nhào.
Nàng định đứng dậy nhưng vừa gượng dậy, cổ chân đã đau buốt, lại ngồi phịch xuống. Đột nhiên, nước mắt A Hành trào ra như mưa, nàng không dám khóc ra tiếng, đành gắng sức kìm lại, kìm nén đến nỗi cả người run lên lẩy bẩy, chỉ thấy từ trong ra ngoài đều buốt giá đến tận xương tủy, tựa hồ rơi xuống hố băng vậy.
Thiếu Hạo vội vàng đứng dậy, định chạy đến đỡ nàng, chợt phát hiện có người nấp trong rừng dâu, “Ai đó?” Xi Vưu rất giỏi ẩn nấp, Thiếu Hạo lại đang hoảng hốt tâm thần, vốn không hề phát hiện ra, nhưng trông thấy A Hành trượt ngã, Xi Vưu đương lúc khẩn trương, quên cả thu liễm khí tức.
Thấy Thiếu Hạo đã phát hiện ra mình, Xi Vưu chẳng buồn né tránh, cứ thế hiên ngang hiện thân. Hắn chỉ hờ hững liếc qua Thiếu Hạo rồi đi thẳng về phía A Hành, coi Thiếu Hạo như không khí, kéo nàng đứng dậy.
A Hành cứ ngỡ là Thiếu Hạo, dụng lực định đẩy ra, nào ngờ lại là Xi Vưu, hai tay nàng bất giác biến đẩy thành nắm, nắm chặt lấy cánh tay hắn, chứa chan nước mắt nhìn Xi Vưu, vẻ mặt đau đớn bơ vơ như muốn tìm một nơi nương tựa, để trút bỏ đau thương không cách nào chịu đựng.
Xi Vưu ôm lấy A Hành, không nói một lời, chỉ siết chặt lấy nàng, siết thật mạnh, như muốn dùng hơi ấm của mình sưởi ấm cõi lòng nàng, giấu nàng vào máu thịt mình, không để nàng phải chịu bất kỳ đau khổ nào nữa.
A Hành gục đầu vào cổ Xi Vưu, cắn mạnh vào vai hắn, khóc lặng đi. Nước mắt nàng trào ra như suối, không có vòng tay ấm áp của hắn, trái tim nàng đã chẳng còn đơn độc lạnh lẽo nữa.
Thiếu Hạo ngẩn ra nhìn Xi Vưu và A Hành, nhưng trong mắt hai người bọn họ chỉ có nhau. Y đành lặng lẽ quay người, ưỡn thẳng lưng, ngẩng cao đầu, từng bước từng bước đi khỏi, duy có ánh mắt vẫn tan tác hư vô.
Huyền điểu chở y bay vút lên không, đêm nay trăng nhạt sao sáng, muôn ngàn ngôi sao lấp lánh hệt như muôn ngàn ngọn đèn lung linh, y ngửa mặt nhìn lên cả trời sao sáng, chợt bật cười như điên dại, cười đến gập cả người, suýt nữa thì ngã xuống. Ngàn vạn ngọn đèn trên sông nước Cao Tân đều an toàn, nhưng ngọn đèn cuối cùng của y đã hoàn toàn tắt lịm!
Bảy ngày sau, theo lệ tục, phải làm lễ tế Xương Phó.
Xương Phó giết Đồng Ngư thị tội không thể tha, nhưng nàng đã lấy mạng đền mạng. Nhờ A Hành thuyết phục, cuối cùng Hoàng Đế cũng hạ lệnh phóng thích tất cả chiến sĩ Nhược Thủy tộc bị giam giữ, còn cho phép bọn họ dự lễ tế Xương Phó, có điều không được trở về Nhược Thủy nữa, mà trở thành thị vệ bên cạnh Chuyên Húc, mãi mãi ở lại Hiên Viên sơn.
Hoàng Đế đích thân tới dự lễ tế Xương Phó, nghi thức do Chuyên Húc thực hiện dưới sự chỉ dẫn của Tiểu Tông Bá, nhưng Chuyên Húc lần lữa mãi vẫn không chịu bắt đầu, nói phải đợi cô cô.
Tiểu Tông Bá giục giã mấy lần, Chuyên Húc chỉ mím môi không nói. Trước khi cậu đi, cô cô đã dặn: “Con đi trước đi, cô cô phải đi lấy mấy thứ cho mẹ con, để mẹ con an tâm đi cùng cha con.”
Hoàng Đế hờ hững đứng ngoài quan sát.
Chuyên Húc toàn thân vận đồ tang, đứng ngay đầu tiên, gương mặt nhỏ đanh lại. Có lẽ vừa phải trải qua hai cái tang lớn, cặp mắt cậu đượm vẻ chín chắn trước tuổi, ánh mắt nhìn người khác luôn luôn lạnh lùng, đầy cảnh giác và thăm dò, bởi tuổi còn quá nhỏ, chưa biết che đậy nên vẻ sắc bén bức người đó của cậu lại càng khiến người ta kinh hãi.
Tiểu Tông Bá nhìn giờ, không dám lần lữa thêm nữa, bèn hạ lệnh cử hành nghi thức, nào ngờ Chuyên Húc đã bước lên trước, cương quyết tuyên bố trước tất cả mọi người: “Ta nói khi nào bắt đầu thì khi nấy mới được bắt đầu!”
“Nhưng còn giờ giấc…”
Chuyên Húc trừng mắt nhìn Tiểu Tông Bá, “Người nằm đây là cha mẹ ta, ta phải làm chủ!”
Tiểu Tông Bá không nói được nửa lời, lúng túng đưa mắt nhìn Hoàng Đế, nào ngờ Hoàng Đế chẳng nói gì, chỉ chăm chú nhìn Chuyên Húc.
Hoàng Đế còn nhớ lần đầu tiên nhìn thấy Chuyên Húc là lúc cậu còn quấn tã, ông ôm Chuyên Húc vào lòng, phát hiện thấy cậu rất mẫn cảm với tiếng đàn, khi nhạc sư cung đình đàn sai một nốt, Chuyên Húc thuở ấy còn chưa biết nói đã cau mày. Hoàng Đế ngỡ rằng tính tình Chuyên Húc cũng giống như Xương Ý, chỉ mê mải với những thứ vô dụng cầm kỳ thi họa, từ đó chẳng ngó ngàng gì đến cậu nữa. Nhưng lần này, Hoàng Đế đã bắt đầu nhìn Chuyên Húc bằng con mắt khác.
Hôm nay cũng là ngày tế lễ Đồng Ngư thị, nhưng Luy Tổ là vương hậu, Thanh Dương là Hoàng Đế tương lai trong lòng mọi người, Hoàng Đế lại loan tin ra ngoài là Xương Phó bị thương trên chiến trường, thương thế quá nặng mà qua đời, nên lễ tế đương nhiên cũng phải long trọng hơn Đồng Ngư thị “bệnh nặng mà chết” nhiều.
Trước mộ Đồng Ngư thị vắng tanh, chỉ có một mình Di Bành đang quỳ.
Thấy A Hành tiến lại, Di Bành quát: “Cút xa ra!”
A Hành chẳng buồn để ý tới hắn, vẫn đến bên mộ. Di Bành nổi giận, liền vung quyền đánh A Hành, chiêu nào chiêu ấy đều chí mạng, “Ngươi tới đây diễu võ dương oai chứ gì?”
A Hành vừa tránh vừa đáp: “Ta diễu võ dương oai cái gì đây? Diễu võ dương oai rằng ba người anh ruột của ta đều bị các ngươi hại chết ư? Diễu võ dương oai rằng mẹ ta đã bị mẹ ngươi ép đến nỗi mạng sống chỉ còn sớm tối ư?”
Di Bành nghi hoặc hỏi: “Ngươi nói bậy gì thế? Chẳng phải Thanh Dương vẫn sống sờ sờ ra đó ư?”
“Đại ca chết rồi, khi ngươi bày kế khiến phụ vương hiểu lầm rằng Đại ca định đầu độc phụ vương, huynh ấy đã uống phải thuốc độc, đúng lúc giao đấu với Xi Vưu thì độc dược phát tác, Đại ca chết dưới tay Xi Vưu.”
“Vậy Thanh Dương bế quan trị thương dưới đáy Quy khư là giả à?” Di Bành phá lên cười ha hả, cười đến đứt cả hơi, “Mẹ, mẹ nghe thấy chưa? Hung thủ hại chết ca ca con đã chết! Mụ già ác độc ấy cũng sắp chết rồi!”
A Hành lạnh lùng quan sát, Di Bành cười chán, mới đưa mắt nhìn A Hành, hỏi: “Cứ theo tính tình của ngươi, đây hẳn là tế lễ ngươi tặng cho ta. Tiểu muội à, ngươi định giết ta thế nào đây?”
A Hành đáp: “Ta đã ra tay rồi.”
Di Bành cười: “Ta tin, nhưng ta không hiểu.”
“Mấy ngàn năm trước, mẹ ta đã kết bái huynh muội với Viêm Đế, khi ông ấy lâm bệnh nặng, bèn đem Thần Nông Bản Thảo Kinh kết tinh tâm huyết cả đời tặng lại cho ta.”
Di Bành sực hiểu ra, “Hèn chi ngươi có thể trì hoãn ngày sinh của đồ con hoang kia, nhưng dù có Thần Nông Bản Thảo Kinh, cũng không thể dễ dàng hạ độc ta được.”
“Ta biết, nhưng ngươi quên rồi sao? Chúng ta từng học cùng một thầy, ta nắm rõ cách vận hành linh khí của ngươi. Chất độc dược chia làm hai phần, phần thứ nhất, chính là ở đây.” A Hành nhìn về phía mộ Đồng Ngư thị, “Mấy ngày nay ngươi luôn quỳ ở đây suốt đêm, trong lúc thương tâm, linh lực hộ thể cũng yếu đi nhiều, tà khí rất dễ xâm nhập.”
“Đây là mộ huyệt có linh lực gia trì, nếu có độc nhất định sẽ xảy ra biến hóa.”
“Phải, nên thứ ta dùng không thể gọi là độc dược, ngược lại còn là thuốc bổ, rất có ích trong việc nâng cao linh lực, có thể giúp linh lực của ngươi tăng vọt chỉ trong một khoảng thời gian ngắn. Vừa rồi ta vừa tiết lộ với ngươi rằng Thanh Dương đã chết, khiến ngươi kích động, trong lúc cười sằng sặc đã hít phải rất nhiều thứ không nên hít phải, những thứ đó cũng không phải là độc dược, nhưng khi gặp phải dược chất trong cơ thể ngươi, lại kết hợp với phương thức vận hành linh lực đặc thù của ngươi nữa, sẽ dẫn tất cả linh lực của ngươi tụ về tim, sau cùng, tim ngươi sẽ không chịu đựng nổi linh lực mạnh mẽ của bản thân mà nổ tung.”
Thấy Di Bành sững người, A Hành lại nói: “Ta là đồ đệ của Viêm Đế Thần Nông Thị, chứ không phải đồ đệ của Cửu Lê Độc vương, không nhất thiết phải hạ độc mới có thể lấy mạng người.”
Sống đã chẳng có gì vui, thì chết có gì đáng sợ? Di Bành cười, ngưng tụ linh lực toàn thân, toan một chưởng đánh chết A Hành, “Vậy cũng hay, chúng ta cùng lên đường thôi!”
A Hành đứng yên không nhúc nhích. Chưởng lực của Di Bành mới đánh xuống nửa chừng, hắn đã ngã gục trước mộ.
Tất cả linh lực vừa rồi hắn ngưng tụ đều cuộn lên đổ về tim, huyết quản trong ngực cơ hồ muốn vỡ tung, đau đến nỗi hắn co rúm người lại.
Di Bành ra sức khắc chế linh khí chạy loạn trong mình, sắc mặt từ trắng đổi sang xanh, lại từ xanh đổi sang đỏ, vô số linh khí tựa như vô số con rắn độc cắn xé trái tim hắn, khiến cơ mặt hắn giật giật vì đau đớn.
A Hành ngồi xuống bên cạnh Di Bành, ánh mắt vô cùng phức tạp, nàng hận hắn, nên mới bày ra cách chết đầy đau đớn này dành cho hắn, nhưng hiện giờ nhìn hắn đau đớn vật vã, lòng nàng cũng đau khổ chẳng kém.
“Di Bành, nếu ta không giết ngươi, ngươi có hạ sát thủ với Chuyên Húc chăng?”
Di Bành đau đến méo mặt, nhưng vẫn cười sằng sặc, hung hăng đáp: “Có! Mẹ nó đã giết mẹ ta, sao ta có thể tha cho nó được? Các ngươi đều phải chết… Á á!” Di Bành đau đến nói không nên lời, hai tay bắt đầu cào cấu lên ngực. Y phục đều bị hắn xé rách, để lộ vết thương trên vai trái, là năm vết thâm tròn tròn, nhìn giống hệt một dấu thần chú.
A Hành chợt biến sắc mặt, hai mắt ầng ậng nước.
“A… A…” Di Bành đau đớn thét lên, ngã xuống dưới chân A Hành, cả ngươi co rúm ró, vết thương trên vai càng hiện rõ hơn.
A Hành run rẩy đưa tay ra, đặt lên vai Di Bành, truyền linh lực vào cơ thể hắn, toan làm giảm đau đớn. Di Bành vung tay hất nàng ra, “Ngươi cút ra!” Nàng vẫn chẳng hề tránh né, mặc cho Di Bành đánh đã, tay áo bị hắn xé toạc, lộ ra cả cánh tay. Trên cánh tay nàng cũng có một vết thương, giống hệt vết thương trên vai Di Bành, trông như nửa dấu chân thú vậy.
Cánh tay Di Bành đang định đánh vào tay nàng, chợt khựng lại.
Linh lực của A Hành bắt đầu phát huy tác dụng, cơn đau dần dần dịu hẳn. Cơn đau lui đi, dường như cũng cuốn theo tất cả bi thương oán hận trong lòng, trái tim hắn tựa hồ biến thành một đầm nước trong veo, ánh mặt trời rọi xuống, xuyên qua thời gian dằng dặc, nhìn thấu tận đáy đầm, nơi đó, có một cậu thiếu niên vô tư vô lự, còn chưa biết ưu sầu.
Phụ vương quy định cho hắn và A Hành cùng nhau đọc sách, còn chọn cho cả hai một vị sư phụ, nhưng mẹ lại cấm hắn nói chuyện với A Hành. Mỗi sáng A Hành đều nấp bên góc tường đợi hắn, cùng hắm nắm tay nhau tới lớp.
Chiều hè, cả hai lại cùng nhau nhảy từ trên cây cầu cao ngất xuống nước, đọ xem bọt nước của ai làm bắn lên to hơn. Mùa đông tuyết rơi, hai người cùng nằm lăn ra trên mặt tuyết, dùng sọt úp chim tước. Hắn tặng A Hành con anh vũ mình yêu thích nhất, A Hành cũng thêu hầu bao cho hắn, một chiếc hầu bao có tua tuyệt đẹp.
Trên núi vắng mọc đầy cỏ dại là khu vườn bí mật của họ, cùng đuổi nhau, cùng bắt bướm, cùng vồ dế, đào giun, A Hành gọi “Cửu ca, từ từ thôi”, hắn sẽ gọi “A Hành, mau lên”.
Có lẽ vì mẹ và các anh đều cấm họ chơi chung, mà cả hai lại quá bướng bỉnh, nên càng cấm họ càng thân thiết. Rõ ràng rất thân nhau, nhưng mỗi lần cả nhà họp mặt, đều phải lờ nhau đi, vờ như không quen, đợi đến nơi không có ai, lại nhìn nhau cười, lén làm mặt quỷ chòng nhau, hí hửng vì cha mẹ và các anh không biết bí mật nhỏ của họ.
Mỗi lúc ăn cơm cùng, vì ngang hàng, hai người ngồi cạnh nhau, chẳng ai dám nói với ai câu nào, nhưng dưới gầm bàn lại lén lút ta đẩy ngươi, ngươi đánh ta, cùng mím môi cười vụng.
Nghe nói Tượng Võng thúc thúc bắt được một con yêu quái rất lợi hại, cả hai rủ nhau trốn học đi xem đại yêu quái, hai mái đầu chụm lại, thì thầm bàn tính một lát đã ra được vô số âm mưu quy kế, gạt được tất cả thị vệ. Hai người lẻn vào, vô ý phá vỡ cầm chế, khiến con yêu quái hung bạo xông ra. Cả hai sợ cuống quýt, vội co cẳng chạy như bay. A Hành mặc váy nên chạy không được nhanh, bị yêu quái vồ được, bẻ gãy lìa tay. Hắn ngoảnh lại nhìn A Hành, thấy nửa nửa người A Hành toàn máu là máu, vẫn không quên hét bảo hắn: “Cửu ca, chạy mau, chạy mau!”
Hắn vô cùng sợ hãi, rất muốn bỏ chạy, nhưng hắn còn sợ A Hành bị yêu quái ăn thịt hơn, bèn chạy ngược lại cứu A Hành, nhảy tưng tưng, huơ huơ tay trước mặt yêu quái, “Đến đây, đến đây, đến mà bắt tao đây này!”
Con yêu quái bị chọc giận, bèn bỏ lại A Hành đuổi theo hắn. Hắn chạy không thoát, liền bị yêu quái tóm được, móng vuốt sắc nhọn của nó xuyên thủng cả vai hắn, chưa hết, một chân kia của nó sắp cắm ngập vào tim hắn. A Hành kéo lê cánh tay gãy, nhảy vọt lên vai yêu quái, ra sức nện vào mắt nó, vừa nên vừa khóc: “Cửu ca, Cửu ca, huynh có đau không?”
Hắn không muốn tỏ vẻ yếu đuối như con gái, bèn gắng gượng làm mặt quỷ với A Hành, vờ như không hề gì, hít một hơi khí lạnh, nói: “Con yêu quái này cũng lợi hại ghê.”
Nhìn hắn làm mặt quỷ, A Hành phá lên cười.
May sao Tượng Võng thúc thúc đến kịp, cứu được hai đứa. Tuy thúc thúc cùng các anh đều xin cho, nhưng phụ vương vẫn vô cùng giận dữ, đem nhốt cả hai lại, còn nói thầy thuốc không được chữa lành sẹo cho hai người, để cả hai trông thấy mà nhớ kỹ lời người lớn.
Những tháng ngày cùng nhau học hành, cùng nhau nô đùa, cùng nhau đối phó với cha mẹ, cùng nhau lừa gạt các anh trai…
Di Bành nắm lấy tay A Hành, vẻ mặt hoang mang vô hạn, tựa hồ không hiểu sao bọn họ lại thành ra thế này.
“A Hành.” Di Bành khẽ gọi. Từ khi Tam ca Hiên Viên Huy chết đi, hắn vẫn khách khí gọi nàng là tiểu muội.
A Hành ròng ròng nước mắt, “Cửu ca.” Từ sau khi Thanh Dương chết đi, đây là lần đầu tiên nàng thật lòng xem hắn là anh trai.
Di Bành mỉm cười, “Nếu chúng ta không bao giờ lớn lên thì hay quá, ta thực muốn được quay về ngày nhỏ như xưa.”
Linh lực của A Hành không kiềm chế nổi linh lực của Di Bành nữa, cơn đau lại tăng lên, Di Bành nhẹ nhàng gỡ thanh chủy thủ A Hành đeo bên eo, cũng chính là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, gắng chút sức tàn đâm thẳng vào ngực mình, “A Hành, con yêu quái lần này lợi hại quá, chúng ta đều thua cả rồi.”
“Cửu ca, Cửu ca…”
A Hành hốt hoảng gọi, mắt nhòe nhoẹt nước mắt, đột nhiên, Di Bành lè lưỡi làm mặt quỷ với nàng.
Gương mặt quỷ bỗng cứng đờ, trở thành lời cáo biệt vĩnh hằng.
“Cửu ca!” A Hành ôm lấy Di Bành, khóc không ra tiếng.
Trên triền núi, bươm bướm dập dờn, một đôi thiếu niên thiếu nữ đang chạy nhảy trong gió, tiếng cười rộn rã lan xa.
A Hành, A Hành, mau lên, mau lên!
Cửu ca, Cửu ca, từ từ, từ từ thôi!
Ha ha ha ha… Ha ha ha ha…
Dưới sự cố chấp của Chuyên Húc, mọi người đành đứng đợi trước mộ Xương Ý và Xương Phó.
Trông thấy A Hành sắc mặt tái nhợt, lảo đảo tiến lại, Tiểu Tông Bá lập tức tuyên bố bắt đầu nghi thức.
Trong tay A Hành nắm chặt một thanh chủy thủ nhuộm máu là lễ vật nàng và Thiếu Hạo tặng cho Xương Ý và Xương Phó nhân ngày thành hôn, là thanh chủy thủ đâm chết Đồng Ngư thị, cũng là thanh chủy thủ Xương Phó dùng để tự vẫn, nhưng hôm nay, sao nó lại nhuốm máu?
Trong tiếng nhạc ai oán, A Hành cắm phập thanh chủy thủ trước mộ, “Tứ tẩu, tẩu yên tâm đi cùng Tứ ca đi, không còn ai có thể làm hại Chuyên Húc nữa đâu.”
Người khác không hiểu nàng đang nói gì, chỉ mình Hoàng Đế biến sắc mặt: “Hành nhi, rốt cuộc con đã làm gì hả?”
“Con kết thúc tất cả mọi chuyện rồi!” A Hành đứng đó, thân mình lảo đảo như thể gió thổi cũng ngã, nhưng gương mặt lại quật cường lạnh lẽo đến không ngờ.
Hoàng Đế giật thót mình, vội quay phắt người chạy về phía mộ Đồng Ngư thị.
Hồi lâu sau, chợt nghe trong rừng sâu vọng ra một tiếng kêu thê lương mà ngắn ngủi. Thân mình A Hành lảo đảo như sắp ngã, nhưng nàng vẫn cắn lưỡi, gắng gượng đứng vững.
Nàng bế Chuyên Húc lên, “Chúng ta về nhà thôi, về xem bà nội và Tiểu Yêu thế nào.”
Chuyên Húc nắm lấy thanh chủy thủ bằng cả hai tay, “Vậy còn cái này? Để lại cho mẹ con à?”
“Con giữ lấy mà hộ thân, để mẹ con được yên lòng.”
Chuyên Húc ôm lấy thanh chủy thủ, khóe môi mím chặt, chăm chú nhìn ngôi mộ cha mẹ, kiên quyết gật đầu như thầm hứa.
A Hành vừa đặt chân vào Triêu Vân điện, Hoàng Đế đã xách kiếm bám theo sát gót.
Chẳng để đám thị nữ bẩm cáo, Hoàng Đế xông thẳng vào, vung kiếm toan lấy mạng A Hành, Chu Du định ngăn lại mà không ngăn nổi, Cửu Dao hoảng sợ khóc ré lên, vừa khóc vừa cùng Chuyên Húc một trái một phải ôm ghì lấy chân Hoàng Đế, nhưng chẳng cản được bước chân ông.
A Hành ngồi yên bất động, ngẩng đầu chăm chú nhìn Hoàng đế, không hề sợ hãi.
Hoàng Đế giơ cao kiếm, bàn tay run bắn lên, vung kiếm định chém xuống.
“Ông muốn giết thì giết tôi trước đi!” Giọng già nua yếu ớt của Luy Tổ chợt vang lên.
Thì ra, Vân Tang thấy tình hình không ổn, lập tức chạy đi tìm Luy Tổ, bấy giờ nàng vừa đỡ Luy Tổ hớt hải chạy đến.
Hoàng Đế giật mình, nhát kiếm lệch đi, không chém trúng A Hành. Ông ngoảnh lại trừng mắt nhìn Luy Tổ, trỏ vào A Hành hỏi: “Bà có biết nó đã làm gì không? Nó giết Di Bành ngay trước mộ Đồng Ngư đấy, máu Di Bành loang đỏ cả nấm mộ…” Hoàng Đế run giọng, không nói tiếp được nữa.
Luy Tổ lạnh lùng hỏi lại: “Ông đã điều tra chưa? Sao có thể không truy xét gì đã định tội cho Hành nhỉ?”
Hoàng Đế cười thâm, giễu cợt hỏi: “Còn cần tra xét nữa ư?” Ông trợn mắt nhìn A Hành, “Là mày làm phải không?”
A Hành thản nhiên nhìn Hoàng Đế, hờ hững hỏi: “Phụ vương thấy thế à? Ngàn năm trước, khi Nhị ca chết đi, nếu phụ vương có thể trả lời rõ ràng câu hỏi của Đại ca, thì đâu có câu hỏi ngày hôm nay.”
Hoàng Đế chợt run bắn lên, thanh kiếm trong tay keng một tiếng rơi xuống sàn: “Mày đã không còn là Hành nhi con gái ta nữa rồi!” Ông trừng trừng nhìn A Hành, thê lương nói: “Sau khi Vân Trạch chết đi, ta đã sợ rằng sẽ có ngày này. Ta bất chấp mọi người phản đối, cố ý cho mày và Di Bành học chung một thầy, để cả hai cùng học cùng chơi, cùng nhau lớn lên, chính là hy vọng không xảy ra sự việc ngày nay.”
Đoạn ông tóm lấy cánh tay A Hành, “Nhìn thấy vết thương này không? Còn nhớ Di Bành đã cứu mày thế nào không? Ta lệnh cho thầy thuốc không chữa lành sẹo, không phải để trừng phạt hai đứa bướng bỉnh, mà là để hai đứa suốt đời phải ghi nhớ, hai đứa là huynh muội, một giọt máu đào hơn ao nước lã!” Nói rồi ông ném cánh tay A Hành xuống: “Vết thương này cả đời mày cũng không xóa được, ngày ngày mày sẽ phải ghi nhớ rằng mày đã giết chết Di Bành, mày cứ ôm lấy ký ức ấy mà sống đi, sống một ngày là đau khổ một ngày!”. Dứt lời, Hoàng Đế quay phắt người, rời khỏi Triêu Vân điện.